Món ăn

Món bánh caramen

di li |

Suốt những năm tháng rất dài, món ăn yêu thích nhất của tôi luôn là bánh caramen. Mẹ tôi có thể làm loại bánh này. Nếu không thế, những năm đầu thập niên 1980 cũng khó tìm thấy một cửa hàng bán thứ đồ dessert ngon và sang trọng nhường ấy. Mẹ biết làm nhiều món ăn độc đáo vì thời Pháp, bà ngoại tôi có một cửa hàng ăn và ông ngoại là người nếu không sành ăn nhất thì cũng nhì, không nhì thì... cũng ba ở đất Hà thành. Vì thế món bánh caramen có tính gia truyền, làm nó khá là cầu kỳ, nhưng nguyên liệu thì đơn giản, chỉ cần sữa đặc, trứng gà và đường kính. Có vậy thôi nhưng chẳng mấy khi tôi được ăn caramen. Chúng tôi luôn luôn không đủ nguyên liệu. 

Maqluba, giai điệu từ Trung Đông

di li |

Saadi Salama, đại sứ Palestine, có lẽ là một trong những nhân vật ngoại giao “hot” nhất ở Việt Nam và được truyền thông săn đón nhiều nhất, phần là bởi anh đã trải qua 16 cái Tết ở Việt Nam và nói tiếng Việt còn thạo hơn cả người Việt. 

Những món ăn không nên thưởng thức trong 3 ngày tết

Bích Hà |

Theo quan niệm dân gian, một số món ăn đặc sản, khoái khẩu của nhiều người, nhưng nếu ăn chúng trong những ngày đầu năm mới sẽ mang đến những điều đen đủi, không may mắn.

Sau những giấc mơ đường

di li |

Kỷ nguyên này có lẽ là thời đại sợ bánh kẹo. Người lớn ớn kẹo ngọt đã đành, trẻ em cũng thờ ơ nốt.

Quán quen

di li |

Bạn bè tôi không nhiều người chung niềm yêu thương với Hà Nội. Họ là những người từ tỉnh thành khác, quốc gia khác đến ở lại trong thành phố của tôi, vĩnh viễn hoặc chỉ một thời gian ngắn.

Buffet rau ở Luang Prabang

di li |

Tôi nghiện món Lào. Trong khi trước đây, tôi cứ tưởng đồ ăn Thái đã là số một trong danh sách ẩm thực của mình, nhưng thực đơn Lào, chỉ một thời gian ngắn đã hầu như đánh bại thói quen cũ, khi mà cứ hễ đạt được thành tích gì thì tôi tò tò lên Sawadee Lý Thường Kiệt ngồi chén một mình bát Tom Yum và đĩa cà ri gà để tự thưởng. 

Bún riêu ngày tết

di li |

Mỗi năm cứ cuối Chạp, các bà các mẹ xứ Bắc lại rộn rịp chuẩn bị cho món Tết. Đầu tiên là măng lưỡi lợn khô và bóng bì mua về cất nơi khô ráo trước khi đem ngâm sát ba mươi. 

Ăn chơi côn trùng

di li |

Ngày trước đọc báo thấy nữ minh tinh Angelina Jolie nhận cậu bé Maddox người Campuchia làm con nuôi. Sau đó nàng tập cho con trai nuôi ăn... con gián để giữ gìn nguồn cội và truyền thống. Tôi cứ ngỡ người dịch bài có vấn đề, chắc lại dịch loạn. Dân tộc có đói kém đến mấy cũng chả ai đi lấy gián mà ăn.

Cocktail

di li |

Tôi thì không thích bia rượu, tóm lại là các đồ uống có cồn, nhìn người uống rượu tì tì cũng ghét nốt, nhưng lại nghiện pha chế cocktail. Có một dạo 10 năm về trước, tôi bỏ ra đến cả cây vàng để mua các loại rượu mùi về nhà pha chế. Có lẽ chỉ vì tôi say mê với màu sắc của các loại cocktail và sự biến ảo tuyệt vời của hương vị rượu mùi pha trộn.

Người xứ sa mạc thích ăn đồ nóng, người xứ băng tuyết thích ăn đồ nguội

di li |

Trong suốt những ngày lưu lại bên bờ vịnh Baltic, chúng tôi trông cả vào sự dẫn đường của cô Heikkila, một phụ nữ trung niên tóc bạch kim ngọt ngào và dễ chịu.

Hai mươi tám chiếc quẩy

di li |

Hồi trung học, tôi thường xuyên bị viêm màng túi. Lũ học sinh lớp 10 chúng tôi luôn ra khỏi nhà với chiếc túi rỗng tuếch trong khi có vô số thứ phải cần đến tiền.

Ẩm thực rubik: Trà đạo Maroc

di li |

Pháo đài Oudayas của thủ đô Rabat (Maroc) không chỉ gối đầu lên Đại Tây Dương, nó còn nằm ngay bên cửa sông Bou Regreg, có lẽ là một vị trí chiến lược đắc địa từ thế kỷ XII, kể từ khi các Sultan ra lệnh đổ móng cho công trình quân sự này. 

Cá tuyết, bạch tuộc và tôm hùm Đại Tây Dương

di li |

Những món ăn nổi tiếng của Bồ Đào Nha chủ yếu cũng lại là hải sản. Chuyến đi này của tôi, vì thế có thể được đặt tên là “tour hải sản”. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Maroc chung một nguồn đánh bắt từ Đại Tây Dương.

Ăn uống trên vỉa hè Hà Nội cũng là một thú vui

di li |

Hễ mỗi lần đi xa, hay đúng hơn là chỉ cần rời khỏi Hà Nội, bản năng ăn uống của tôi bỗng trở nên hèn.

Trứng luộc trường sinh

di li |

Trên đường đến núi Phú Sĩ, có một điểm không thể không dừng lại ở thành phố Hakone: Thung lũng Sục sôi. Trước kia, thung lũng này được gọi là “Oojigoku” (Địa ngục lớn) hay “Jigokudani” (Thung lũng địa ngục).