Đây không phải lần đầu các địa phương bị “cấm” xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc vì người lao động bỏ trốn. Tình trạng lao động Việt Nam phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và ở lại cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc là khá nhiều. Có hai dạng lao động bỏ trốn: Một là sang làm việc chỉ được một thời gian ngắn rồi xé bỏ hợp đồng trốn ra ngoài làm việc. Hai là sắp hết hạn hoặc hết hạn hợp đồng là trốn ở lại cư trú bất hợp pháp. Có giai đoạn tỉ lệ lao động Việt bỏ trốn lên tới 30%. Riêng trong năm 2015, Hàn Quốc tiến hành truy quét 26.000 lao động Việt cư trú bất hợp pháp ở cả hai dạng này. Hàn Quốc đã phải ngừng gia hạn tiếp nhận mới lao động Việt Nam từ năm 2013 đến 2016, khiến hàng chục nghìn lao động lỡ cơ hội ra nước ngoài làm việc.
Tình trạng lao động xuất khẩu bỏ trốn có nguyên nhân từ chế tài xử phạt chưa đủ nghiêm minh. Người lao động trước khi xuất cảnh chỉ phải ký quỹ 100 triệu đồng. Bên cạnh đó, Nghị định số 28/2020/NĐ-CP (trước năm 2020 là Nghị định số 95/2013/NĐ-CP) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động cho phép phạt tiền người vi phạm đến 100 triệu đồng. Tổng số cả hai khoản tiền trên chỉ vào khoảng 3-4 tháng lương nếu lao động Việt trốn được để ra làm bên ngoài. Cho dù sau đó có bị nước sở tại phát hiện, bắt giữ và trục xuất, nhưng nếu trốn được 2 - 3 năm trở lên, lao động Việt tính toán tiền kiếm được vẫn hơn rất nhiều lần làm việc chính theo hợp đồng. Rất nhiều lao động đã chấp nhận đánh đổi!
Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn tại Hàn Quốc đã kéo theo nhiều hệ lụy. Phía Hàn Quốc nhiều lần lên tiếng, thậm chí quyết định tạm dừng tuyển dụng lao động Việt Nam sang Hàn Quốc tại những địa phương có tỉ lệ bỏ trốn cao. Thể diện của làng xã, địa phương, thậm chí quốc gia đã bị ảnh hưởng. Đó là điều không thể chấp nhận được!
Cần phải lên án và xử phạt thật nghiêm minh với những lao động xuất khẩu bỏ trốn tại Hàn Quốc. Không để “con sâu làm rầu nồi canh”.