Chùa xưa đất cố đô
Làng Cổ Trai xưa là quê hương của vua Mạc Thái Tổ (1483 - 1541), vị vua sáng lập ra nhà Mạc, một triều đại phong kiến tuy tồn tại theo chính sử chỉ có 65 năm (1527 - 1592) nhưng đã để lại nhiều dấu ấn mạnh mẽ trong lịch sử, kinh tế, văn hóa dân tộc. Năm 1529, Mạc Thái Tổ nhường ngôi cho con là Mạc Thái Tông, lui về làm Thái thượng hoàng, xây dựng kinh đô Dương Kinh ở quê hương huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
Theo tương truyền chùa Nhân Trai có từ thời Lý. Cuốn Chùa cổ Hải Phòng chép lại rằng: “Công chúa Lý Nam Khang, con vua Lý Nhân Tông trong khi đi kinh lý qua vùng này đã dừng chân nghỉ ngơi, nhận thấy dải đất có hình thể đẹp, bà đã cho dựng một am nhỏ lợp bằng cói quay về hướng Tây Bắc. Sau đó, vua Lý Cao Tông lên ngôi đã xây dựng ngôi am này thành một ngôi chùa nhỏ thờ Phật cho dân ven biển đến lễ bái cầu an, cho gió yên biển lặng”.
Vào cuối năm Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hòa (năm 1541), vua Mạc Hiến Tông cho trùng tu chùa Nhân Trai to đẹp hơn, quay hướng Đông Nam nhìn ra biển, đồng thời dựng tượng vua Mạc Thái Tổ. Pho tượng chân dung bằng gỗ đặt ở vị trí bên phải của phật điện trong tư thế khoanh chân xếp bằng, dáng thon lẳn, mũi cao tay dài, cổ ba ngấn, hai tay đặt trước bụng, lộ bàn tay phải, áo bào rộng, cổ áo vạt chéo chữ V, trước bụng có chạm hình rồng có thể là tượng của nhà tu hành dựng ngôi chùa này.
Đứng chầu là 4 pho tượng: Bên hữu đứng đầu là Mạc Thái Tông rồi đến Mạc Ngọc Di sắc phong Tú Hoa công chúa, hàng bên tả đứng đầu là Mạc Ngọc sắc phong là Trạng Hoa công chúa, thứ đến là Mạc Huệ sắc phong là Khánh Diêm công chúa. Cũng có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và mỹ thuật Phật giáo cho rằng pho tượng bằng đá này là tượng Ứng vương Mạc Đôn Nhượng, một thân vương cốt cán của nhà Mạc. Dù cho những tượng này là ai, thì chắc chắn phần lớn các tượng này đều thuộc về vua, quan và người hoàng tộc nhà Mạc, nên thường gọi là tượng Vương, hay ông Hoàng. Ngoài các pho tượng ở chùa Nhân Trai này, chúng ta còn có những pho tượng khác có cùng phong cách nghệ thuật như tượng ở chùa Trung Hành, chùa Hòa Liễu (Hải Phòng)...
Tượng có đặc trưng là trên mũ có hình con chim đang chúc đầu xuống và trước ngực có hình rồng uốn lượn trên áo bào. Bên cạnh tượng vương này, ở thời Mạc có một số pho tượng đá mà trên mũ cũng có hình chim bay chúc đầu xuống, đó là tượng ở chùa Trà Phương (Kiến Thụy, Hải Phòng); tượng ở chùa An Đồng (Quỳnh Phụ, Thái Bình)... Hình tượng chim gắn trên đầu tượng, ngoài pho tượng này ra, có thể là sớm nhất hiện biết, còn gặp trên một số pho tượng khác, thuộc thế kỷ XVII - XVIII, trong đó tiêu biểu là chim hai đầu trên tượng gỗ Tam Thế chùa Bút Tháp (Bắc Ninh).
Giáo sư Đinh Khắc Thuân, Viện Hán Nôm Việt Nam trong cuốn Văn bia thời Mạc dẫn lời của nhà nghiên cứu Triệu Thế Việt cho rằng: Thực ra, đây là hình tượng Thần điểu - chim Thần, có tiếng hót trong trẻo giảng về Pháp vi diệu, ai nghe thấy có thể tức thời mà lĩnh hội Phật pháp. Tương truyền rằng, loài chim này là linh vật của ngài Bắc Phương Bất không thành tựu Phật. Đương thời Phật Thích ca Mâu ni giảng kinh Diệu pháp liên hoa cho hàng Bồ tát, từng đàn chim này đến đậu trên cây báu Chiên đàn để nghe và lĩnh hội được ý thâm mật của Phật. Sau đó, đàn chim bay đến các tầng trời để chuyển kinh bằng tiếng hót thuyết pháp của mình. Chúng tượng trưng cho sự lĩnh hội Phật pháp của loài hữu tình và là phương tiện chuyển Pháp đến với chúng sinh. Chim Thần cũng có thể hiểu là hình ảnh thuyết pháp của chư Phật, được người Việt sử dụng trong trang trí điêu khắc nhằm tạo cho tác phẩm có yếu tố siêu thực, làm mọi người liên tưởng đến tiếng hót vi diệu của loài chim thuyết pháp, về mặt tạo hình, chim đều nằm ở đỉnh cao nhất của tượng trong tư thế bay hướng đầu xuống dưới, tạo thành hai chiều chuyển động: Phật là chúng sinh vươn lên chân lý, còn chim đại diện cho chân lý của Phật pháp sẵn sàng hòa xuống cùng chúng sinh. Cách tạo hình này biểu trưng quan niệm của Phật giáo: Phật pháp bất ly thế gian pháp.
Những biến thiên của thời gian
Hiện nay, chùa Nhân Trai còn có 6 thành bậc đá đặt trước nền chùa cũ, gồm 2 thành bậc hình rồng và 4 thành bậc chạm mây xoắn. Thành bậc rồng dài 152cm, cao 65cm, bệ cao 45cm; thành bậc chạm mây dài 138cm, cao 50cm. Rồng chạm theo lối cuộn khúc, đầu ngẩng cao với cặp sừng to, mũi sư tử, râu cằm dài, một chân trước bên phải đang nắm lấy râu... Đây là những hiện vật quý được tạo tác dưới thời Mạc mà trải qua một “cuộc bể dâu”, nhà Mạc suy tàn nhưng nhân dân vẫn lưu giữ, trân quý.
Ngoài ra, hiện chùa còn lưu giữ một số bảo vật quý như bộ tượng Tam Thế được bài trí ở vị trí cao nhất thể hiện cho Đức Phật ở 3 thời quá khứ, hiện tại và tương lai. Pho tượng A Di Đà ở vị trí trung tâm Phật Điện, kích thước là 125 x 50 x 87cm, được tạc trong tư thế khoanh chân kiết già, lộ bàn chân phải, hai lòng bàn tay đan vào nhau chắp khum trước bụng. Các bệ tượng bằng gỗ được trang trí các viền, bệ hoa dây viền kép, gạch, chấm, cúc mãn khai... biểu tượng cầu mưa cho mùa màng tươi tốt. Các pho tượng còn lại trên Phật Điện gồm Quan Âm Niêm Hoa, Quan Âm Nam Hải, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, tượng Tam tòa Thánh Mẫu, tượng Đức Ông.
Từ đó tới nay, trải qua bao thăng trầm của thời cuộc, chùa Nhân Trai đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Sách Chùa cổ Hải Phòng cho biết theo tấm bia chữ Hán “Sáng lập minh bi” còn lưu giữ tại chùa cho thấy: Nhất hậu chủ Mạc Đôn Nhượng, tự là Huyền Đức đã đứng ra hưng công tu tạo ngôi chùa Nhân Trai vào năm Kỷ Mão (năm 1579). Chùa Nhân Trai tiếp tục được sửa chữa lại vào thời vua Gia Long (năm 1809); Thiệu Trị thứ 6 (năm 1846); Thành Thái (năm 1893); Duy Tân (năm 1910); Bảo Đại (năm 1934). Những năm 1996 - 1998, do bị xuống cấp nặng nề, nhân dân đã quyên góp tiền bạc, sức người vào tu bổ lại chùa. Năm 2020, chùa được trùng tu, tôn tạo ngôi Đại hùng bảo điện, làm nơi đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa, tâm linh của đồng bào Phật tử và nhân dân địa phương.