Mỗi suất quà 50 triệu đồng, nhưng giá trị tinh thần là rất lớn đối với nhiều công nhân lập nghiệp xa quê có hoàn cảnh gieo neo, nhất là những người ở trọ nơi đất khách quê người.
Tôi cùng cán bộ Công đoàn TP.Đà Nẵng mang món tiền đến tận nhà của một trong số công nhân neo khó đó.
Không ai cầm được nước mắt khi bước vào căn hộ chung cư liền kề đã xuống cấp nơi mé biển Xuân Thiều. Cô công nhân này đang “bụng chửa vượt mặt”, chồng mới bị tai nạn giao thông, nặng đến phải nằm liệt. Cả gia đình nheo nhóc đáng thương đang sống bám vào bà mẹ già.
Ngay căn hộ chung vách này cũng là nhà ở xã hội, được UBND TP.Đà Nẵng cấp cho dân nghèo, trong đó mẹ cô được ưu tiên vì là đối tượng phụ nữ đơn thân.
- Các anh ngồi uống nước, em chạy qua xóm mượn cái quạt. Hôm nay sao nóng quá!.
Miệng nói, chân cô bước nhanh qua thềm cửa, chạy rung rinh cái bụng bầu. Anh cán bộ công đoàn ái ngại vì không kịp can ngăn.
Chẳng có nỗi khổ nào giống nỗi khổ nào. Tôi tự nhủ với mình như vậy khi chợt nhớ đến những thiếu nữ B’hnoong bên bìa rừng Phước Sơn.
Mấy năm trước tôi lên cánh đông Trường Sơn, thâm nhập vào lãnh địa thổ phỉ ở xứ sở vàng Phước Sơn. Tôi đã sốc khi chứng kiến một “ngôi làng” mồ côi với dăm nóc nhà lá tạm bợ, lọt thỏm giữ rừng già hoang vu. Ba bốn thiếu nữ người B’hnoong tựa vào nhau khi bị làng đuổi khỏi cộng đồng. Họ bị hất ra vì cùng lý do chửa hoang. Luật tục của người B’hnoong ở huyện Phước Sơn quy định khắt khe vì cho rằng con gái “ăn cơm trước kẻng” là mang lại điềm xấu, sẽ bị Giàng bắt tội cả làng. Vì vậy, khi phát hiện, họ bị đuổi vào rừng. Dù bụng mang dạ chửa, nhưng các thiếu nữ vụng dại này phải tự đốn cây, bứt lá mà làm nhà. Họ phải tự vượt cạn mà không cho phép sự tiếp tế, giúp đỡ nào từ cộng đồng. Kể cả bố mẹ. Luật tục bắt các “gái ngoan” phải tự chiêm nghiệm, sám hối trong suốt thời gian mang bầu, nằm cữ. Bà mẹ trẻ chỉ được bồng đứa bé về làng sau khi cúng tế một con lợn rừng. Lấy máu lợn vung lên từng mái nhà làm phép, chia từng phần thịt tươi để tạ tội...
Mới hôm nào tôi chạy sấp ngửa tìm bác sĩ quen để cậy nhờ khi vợ sinh khó. Hai bên nội ngoại cả chục người hồi hộp lo âu chờ ở viện. Bây giờ chứng kiến ngay cảnh các thiếu phụ vượt cạn một mình giữa rừng thiêng nước độc mà khiếp hãi, xót xa. Tôi cả giận, tìm đến tận làng của các em để hỏi cho ra nhẽ. Mới trưa, già làng đã ngả nghiêng ngoài quán rượu đầu đường. Lão không chối chuyện. Chỉ buồn buồn thú nhận là “mỹ tục giờ đã lạc hậu rồi”.
- Mỹ tục? Sao ông có thể gọi lối hành xử nhẫn tâm, độc địa như vậy là mỹ tục?
Tôi muốn gào lên.
- Ngày xưa thôi. Chỉ cần nghe đến án phạt như vậy, lũ con trai con gái trong làng đã thất đởm. Không mấy khi có đứa nào phải bị đuổi ra rừng. Bây chừ tục cũ nhạt cả rồi, níu giữ cũng chẳng được. Cơ man người lạ đến làm đường, xây đập thuỷ điện, chưa kể dân tứ chiếng giang hồ đổ về đây làm ăn. Mà lũ con gái thì muôn thuở ngu muội vì lời đường mật phỉnh phờ...
Cô công nhân với cái quạt trên tay đã trở về, cười nói oang oang: “Cả khu này nhà ai cũng khó như nhau nên không ngại chi đâu. Gần chục nhà liền kề đều là những bà mẹ đơn thân, được chính quyền hỗ trợ nhà ở miễn phí. Em giờ cũng thuộc dạng may mắn đó rồi. Ở đây nắm rau, dúm muối cũng dễ xin nhau”.
Tôi bỗng vui lây niềm vui hồn nhiên của em, thứ hạnh phúc đơn sơ như ủ sẵn trong tâm hồn những cuộc đời cần lao đang tụ lại nơi xóm nghèo vất vả.