Chả là vì ông là người trong số ít chúng tôi nếu không nói là duy nhất nắm được tinh thần và sắc thái môn “Thái Ất Thần Kinh” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) còn để lại. Lê Quang Châu vừa biên soạn xong bộ “Thái Ất Tinh Quân Bảo Giám Khâm Định” bằng tiếng Việt hiện đại (bản thảo 2014, chưa xuất bản) giảm bớt đến mức cao ngôn ngữ Hán Việt cổ, với những công thức toán học trên máy tính điện tử, một bạn đọc trẻ ngày nay có trình độ văn hóa nhất định hoàn toàn có thể theo từng bước hướng dẫn mà lập một quẻ Ất như Trạng Trình đã từng lập. Hỏi ra mới biết rằng, chính ông là một hậu duệ của “Lê gia thư các” (thư viện dòng họ Lê) còn giữ được một bộ chân kinh mang tên trên, trong có những bí quyết gia truyền về công thức lập quẻ Ất để tiên đoán thời cuộc và vận mệnh con người. Nhờ cuốn bản thảo này mà đọc hiểu thêm rất nhiều bộ Thần Kinh của Trạng Trình đã được Đông Dã Tiều Phạm Đình Hổ (1768 - 1840) tức Chiêu Hổ - bạn của nữ sĩ Hồ Xuân Hương soạn lại dưới cái tên “Huyền Phạm Tiết Yếu” 200 năm sau. Tưởng rằng đến tuổi trời hơn 80 năm, ông chỉ còn thanh thản với ống tiêu lúc nào cũng mang theo bên mình cùng các học trò tiêu dao nơi sông hồ núi non và lặng lẽ truyền đạt những kiến thức xưa (phải cộng thêm cái trực cảm không phải ai cũng có) để tạo ra một thế hệ mới may ra có một người Kể Ất nối tiếp người xưa. Nhưng không. Ông vừa cho tôi đọc một bản thảo mới mang tên “Cửa Thiền đạo Phật”. Cuốn sách mỏng, khoảng 70 trang giấy đánh máy A4. Tôi đã đọc nhiều sách Phật, kể cả cuốn tiểu thuyết đồ sộ của Thích Nhất Hạnh “Đường xưa mây trắng” theo gót chân Bụt trên đường đời, nhưng thú thật chưa gặp được cuốn sách nào đầy đủ về triết lý Phật giáo mà dễ đọc, dễ hiểu như bản thảo này. Có lẽ đó cũng là ý định của tác giả. Bởi triết lý đạo Phật cao sâu chứa đựng trong ngàn muôn trang kinh sách, lại cũng chứa đựng chỉ cần trong 4 chữ A-di-đà-Phật danh hiệu Phật. Nhưng thuật lại cho người bình dân Việt nghe và dẫn họ đến trước cửa Thiền với những hiểu biết về đạo lý với tất cả tâm thức và lòng thành kính thì sách của Lê Quang Châu trong số không mấy gặp. Chương I, ông đã bắt đầu bằng câu hỏi “Chữ Đạo nghĩa là gì?”. Sau đến “Chữ Phật nghĩa là gì?”. Với câu hỏi “Tu hành là thế nào”, ông trả lời trước hết bằng mấy câu ca dao Việt: “Thứ nhất là tu tại gia/ Thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa”. Cứ thế ông đi đến những khái niệm cực khó như Vô thường, Thân vô thường, Tâm vô thường, Hoàn cảnh vô thường. Ông giải thích về Luật Nhân Quả: Vũ trụ, vạn vật không phải tuần hoàn, biến dịch một cách ngẫu nhiên, mà tuân theo một quy luật chung. Đó là nguyên lý nhân quả. Nhân là nguyên nhân, Quả là kết quả. Nhân là cái mầm, quả là cái hột, cái quả do cái mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành của cái năng lực phát động ấy. Hai trạng thái tiếp nối nhau tương quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không có quả, nếu không có quả thì không có nhân. “Có nhân nhân mọc, có quả quả vóc”.
Tôi hỏi ông: “Kinh Dịch có bắt nguồn từ Phật học không?”. Ông nói: “Tôi nhờ Kinh Dịch mà hiểu sâu về tất cả những gì Phật dạy. Từ định nghĩa Dịch là biến dịch, bất dịch, dị giản mà đi đến với Luật Vô thường. Lại từ quẻ Phong Địa Quán mà hiểu về phương pháp Quán giới phân biệt. Qua đấy thấy Phật là một nhà tâm lý học vĩ đại. Tôi học Dịch trước rồi mới học Phật. Nay tôi thấy phải tìm một cách viết, cách nói nào đó giúp người bình dân Việt đi đến cửa Thiền với một tâm thức bắt nguồn của 4 chữ A-di-đà-Phật. Đọc xong bản thảo của Lê Quang Châu (bút danh Hồng Nguyên tử), tôi muốn trích thêm mấy câu sau đây của các nhà khoa học nổi tiếng. “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực kể trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng được các điều kiện đó” (Albert Einstein). Phật giáo khuyến khích mỗi cá nhân tự chuyển hóa nội tâm bằng cách chiến thắng lấy mình, chớ không thể nhờ đến sức mạnh và tiền bạc. Ðức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu họ muốn theo tôn giáo này (GS Lakshmi Nasaru, “Tinh Hoa của Phật giáo”).