Ximăng Phú Thọ vừa công bố Báo cáo tài chính quý I/2021, theo đó tại ngày 31.3.2021 Tiền và tương đương tiền chỉ vỏn vẹn 400 triệu đồng, giảm 82% so với đầu năm, các khoản phải thu ngắn hạn là 43,9 tỉ đồng, trong đó Phải thu ngắn hạn khách hàng là 25,9 tỉ, tăng 54% so với đầu năm, và dự phòng phải thu ngắn hạn khó đòi là 5 tỉ đồng.
Đầu tư tài chính dài hạn là 1,7 tỉ đồng, trong đó Đầu tư góp vốn vào đơn vị khác là 3 tỉ đồng và Dự phòng đầu tư tài chính dài hạn là 1,8 tỉ. Nợ ngắn hạn tại ngày 31.3.2021 là 516,9 tỉ đồng tăng nhẹ 2% so với đầu năm, trong đó Vay và nợ thuê tài chính ngắn hạn là 172,9 tỉ, tăng 4% so với đầu năm. Đáng chú ý, do nhiều năm thua lỗ, vốn chủ sở hữu của Vicem Phú Thọ hiện nay âm 174 tỉ đồng, trong đó vốn góp của chủ sở hữu 125 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối âm 304 tỉ đồng.
Quý I/2021, Ximăng Phú Thọ đạt doanh thu 72,8 tỉ đồng, tăng 25% so với quý I/2020, giá vốn bán hàng tăng 2,5% lên 60 tỉ đồng. Chi phí tài chính 6,8 tỉ (tăng 9%), chi phí bán hàng giảm 63% xuống còn 994 triệu, chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 19% lên 4,7 tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 96 triệu đồng, trong khi cùng kỳ lỗ 13,5 tỉ đồng.
Số liệu trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho thấy Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh âm 2,1 tỉ (trong khi quý I năm ngoái dương 4,1 tỉ đồng), Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư dương 20 triệu đồng (quý I năm ngoái âm 1,8 tỉ đồng). Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ âm 1,87 tỉ (quý I năm ngoái dương 1,5 tỉ đồng).
Theo Tài liệu họp Đại hội cổ đông thì năm 2020 PTE sản xuất được 245 nghìn m3 đá các loại, 202 nghìn tấn clinker và 297 nghìn tấn ximăng, đạt doanh thu 264,2 tỉ đồng (tăng 18% so với 2019) và lỗ 32,6 tỉ, bằng một nửa số lỗ năm 2019.
Các khó khăn khiến cho công ty tiếp tục thua lỗ được HĐQT đánh giá là: Thị trường tiêu thụ ximăng có sự cạnh tranh quyết liệt bởi cung vượt cầu và sự cạnh tranh của các loại ximăng khác trên địa bàn truyền thống và các vùng lân cận; Giá thành nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao, giá than, điện thạch cao, bao bì… đều tăng từ 12 – 25%. Bên cạnh đó nguồn tài chính cạn kiệt cùng với áp lực trả nợ đối với các ngân hàng, các nhà thầu và các nhà cung cấp rất lớn. Công ty vẫn chưa thực hiện xong phương án khắc phục và xử lý nợ xấu đối với các ngân hàng.