Đã có một đêm hệt như đêm nay, trong chiếc lán dã chiến giữa đỉnh đồi không tên - trận địa phòng không thuộc bờ tây vịnh Cửa Lục, cả tiểu đội chúng tôi không ai ngủ được bởi sự rộn rực của ngày hòa bình đầu tiên sau Hiệp định Paris.
Chẳng có gì để ăn mừng ngoài hộp sữa bột loại nửa cân của một anh chàng nổi tiếng bỏn xẻn bỏ ra khao. Chẳng thìa, chẳng nước sôi, cả tiểu đội xúm lại, mỗi chàng cuộn một lá bài thi nhau xúc, dốc thẳng vào miệng, lựa lựa mà đưa xuống. Có chàng vừa ngậm vừa nói, bột phụt như bễ. Một chàng bị nghẹn, cổ rướn dài, hỏi chỉ thở và lắc, cả lán được mẻ cười vỡ sạp. Tiếng cười của một đêm không còn báo động.
Hôm sau là một ngày thật hạnh phúc của Miên, anh cả của chúng tôi. Chị Hồ Ly mang đứa con trai 2 tuổi từ Hà Nội tới thăm chồng. Khuôn mặt thằng bé là sự chọn lọc hoàn hảo những đường nét đẹp nhất của hai người. Bố cằm vuông, mũi cao, bàn tay to rộng. Mẹ da nâu, trán mịn, mày dài. Anh Miên kiệu con trai nhong nhong khắp trận địa trong tiếng vỗ tay vang dội của lính tráng. Anh Miên từng kể, gặp chị nằm bầm dập trên bãi sông Hồng, bèn dìu về nhà phục thuốc. Khỏe lại, chị Hồ Ly không muốn rời mẹ anh và ngôi nhà ven đê nữa. Anh Miên nhập ngũ trong tâm trạng rối bời. Chị bảo: “Anh phận trai, cứ đi, đừng ngoảnh lại”. Tên thật của chị là Bình, nhưng trong thư anh hay gọi “Hồ Ly yêu dấu”, hay thế. Tôi chưa có người yêu, nhưng nhìn họ, thấy một ngày không biệt ly thật quý giá vô ngần.
Tôi thích đời bộ binh, không ngờ bị phiên chế vào tiểu đoàn phòng không địa phương, thành “bộ đội xóm”. Sau này, khi đã ra khỏi chiến tranh, mới hiểu đó là quãng đời không gì đổi được.
Ngày 10.5, tôi bắt đầu biết mùi thuốc súng. Cuộc tấn công của lực lượng Không quân - Hải quân Mỹ mở màn cho kế hoạch hủy diệt đã nhằm vào thị xã toàn than và toa goòng của tôi. Phố xá trùng trùng đổ nát. Từ trận địa nhìn về, chỉ thấy ngôi nhà thờ trên đỉnh Núi Đạo bay hết ngói, còn trơ lại tháp chuông trỏ lên trời hệt ngón cái của một bàn tay băng bó.
Hai lần bom xuyên chụp thẳng xuống trận địa, hai lần chúng tôi phải khiêng 5 đồng đội của mình lên khu rừng thông phía sau. Duy những mục tiêu cốt tử chúng tôi bảo vệ là cảng xăng dầu B12 và bến phà Bãi Cháy thì kẻ thù không xóa nổi.
Đôi khi vẫn bật cười về những ngày đầu, mỗi lần địch xuất hiện là một lần pháo quay loạn xạ, lính ta văng tục, quát tháo nhau om sòm trận địa. Đại đội trưởng hiền thế cũng phải thét lớn “trông cờ ông đây này”. Tôi là trắc thủ, không báo kịp phần tử bắn, bị anh em chửi vuốt mặt. Nhưng cũng thật lạ lùng, chỉ sau loạt đạn đầu quất lên, tất cả lại lặng phắc, nghe rõ tiếng các nòng pháo lên xuống, rê êm theo mục tiêu, đợi lệnh đạp cò.
Suốt mùa hè năm 72, chúng tôi ăn và ngủ ngồi bình thản trên mâm pháo. Có lẽ chẳng có gì làm cho người lính già dặn nhanh hơn là thuốc súng. Cứ mỗi máy bay bị bắn hạ, đơn vị lập tức được thưởng một con bò. Chúng tôi đã làm gọn hai con bò, xào nấu um xùm. Có ngày địch không vào, lính ta lại réo “bò ơi”.
Vâng, không ai tin chú em út chưa đầy 19 tuổi của chúng tôi lại ra đi giữa ban mai yên bình thế.
Sau tiếng nổ chát chúa, cả đại đội đổ xuống triền đồi. Triệu nằm nghiêng trên cỏ, tay vẫn nắm cành thông sum suê đang kéo về ngụy trang cho pháo. Em đã không phát hiện được trái bom xuyên ẩn mình trong một khóm mua.
Chúng tôi quỳ quanh em rất lâu. Bốn bề im lặng. Thế là Triệu đã về nhà. Để lại nơi đây một tuổi trẻ trong veo, bất tử.
Tất cả, không ai khóc được, chỉ thấy mưa xuân đậu thành chùm trên lá thông như muôn ngàn hạt lệ bạc ánh lên trong gió sớm.