Đáng chú ý hai con số trong dự toán là tổng thu ngân sách Nhà nước chỉ đạt 1.700.988 tỉ đồng trong khi tổng chi lên tới 2.119.428 tỉ đồng. Nghĩa là thu không đủ chi. Như thế để thấy áp lực về tài chính khi áp dụng cải cách tiền lương (dự kiến từ ngày 1.7.2024) là quá lớn.
Tinh thần Nghị quyết 27 về cải cách tiền lương là điều đúng đắn không phải bàn cãi. Nhưng nguồn tiền đâu để cải cách tiền lương lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Bộ Nội vụ thông tin, từ năm 2018, các Bộ, ngành, địa phương đã chuẩn bị nguồn tiền để cải cách tiền lương. Và nhờ “thắt lưng buộc bụng” cả nước đã tiết kiệm được 500.000 tỉ đồng để chuẩn bị cải cách tiền lương trong các năm 2024 - 2026.
500.000 tỉ đồng là con số không nhỏ, tương đương 25% với tổng chi ngân sách mỗi năm. Thế nhưng bản chất ở đây là việc cải cách tiền lương không chỉ nhằm xóa bỏ hệ thống bảng lương còn mang nặng tính “cào bằng” đang sử dụng mà mấu chốt lương phải là động lực để người nhận lương làm việc hiệu quả hơn, cống hiến nhiều hơn.
Hay nói cách khác, để phát triển thì giá trị đóng góp phải cao hơn đồng lương được nhận. Nhìn ở phạm vi hẹp hơn, nếu tạm coi Nhà nước là một tổ chức, một doanh nghiệp thì phải làm rõ các câu hỏi: Nhân lực có đang dư thừa không? Năng suất lao động của mỗi cá nhân có tương xứng với số tiền phải trả không? Đồng lương đó có khuyến khích cống hiến không?
Đối với việc tăng lương, lực lượng hưởng lương ngân sách đang rất chờ đợi và kỳ vọng.
Lương mang tính hai chiều. Đối tượng trả lương phải trả đúng, trả đủ. Đối tượng nhận lương phải đảm bảo giá trị họ mang lại tương xứng với đồng lương đã nhận.
Chính phủ vừa phê duyệt Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030. Trong đó mục tiêu trọng tâm là tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt trên 6,5%/năm, phấn đấu nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.
Năng suất lao động xã hội phản ánh năng lực tạo ra của cải, hiệu suất lao động của nền kinh tế. Cải thiện và thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội là khâu then chốt, là giải pháp quan trọng hàng đầu và là lộ trình ngắn nhất để nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững, bắt kịp trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để không rơi vào tình trạng loay hoay “con gà quả trứng” trong việc tăng năng suất trước để có tiền tăng lương hay tăng lương trước để kích thích tăng năng suất, Nhà nước đã sẵn nguồn chi lớn để cải cách tiền lương. Song nó không bền vững và không giải quyết tận gốc vấn đề nếu người nhận lương không sớm thay đổi tư duy, hành động và trách nhiệm của mình trong câu chuyện cải cách tiền lương.