Luật sư Phạm Thị Thúy Kiều - Văn phòng Luật sư số 6, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội - trả lời: Điểm a, khoản 1, Điều 2 Luật BHXH 2014 quy định: Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Do đó, nếu bạn thuộc đối tượng trên mà có thỏa thuận với NSDLĐ để trốn tránh tham gia BHXH là hành vi trái pháp luật và thỏa thuận trên sẽ vô hiệu.
Bạn P.T (email: thuypham260876@xxx) trình bày: Cty chúng tôi có dưới 10 người và đến năm 2015 mới bắt buôc phải đóng BHTN cùng với BHXH. Vậy Cty có phải trả trợ cấp cho cá nhân trong khoảng thời gian từ 2009 đến hết 2014 không (khoảng thời gian này Cty không tham gia đóng BHTN).
Luật sư Phạm Thị Thúy Kiều trả lời: Điều 48 Bộ luật Lao động 2012 quy định: 1. Khi HĐLĐ chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì NSDLĐ có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. 2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ trừ đi thời gian NLĐ đã tham gia BHTN theo quy định của Luật BHXH và thời gian làm việc đã được NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc. 3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo HĐLĐ của 6 tháng liền kề trước khi NLĐ thôi việc. Theo quy định trên, Cty bạn phải chi trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ trong khoảng thời gian không tham gia BHTN từ năm 2009 đến hết năm 2014.