CTCP Tập đoàn Thành Nam (Công ty Thành Nam) là công ty trong nước chuyên cung cấp thép. Từ năm 2010 đến năm 2013, Công ty Thành Nam và Công ty Posco VST (một công ty có vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam) đã ký kết rất nhiều hợp đồng mua bán mặt hàng thép không gỉ.
Đến cuối năm 2013, hai bên có vướng mắc về việc xác nhận nợ dẫn đến Posco VST khởi kiện đòi hơn 58 tỉ đồng. Tại phiên tòa, ngoài số tiền gốc 58 tỉ đồng, Posco PST còn yêu cầu bị đơn phải thanh toán 44 tỉ đồng tiền lãi quá hạn.
Theo nguyên đơn Posco VST, quá trình mua bán, các bên thực hiện thanh toán theo phương thức cộng dồn và xác định số tiền Công ty Thành Nam còn phải trả cho Công ty Posco VST là 58 tỉ đồng.
Sau 1 ngày xét xử, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án cùng lời khai của các đương sự, HĐXX thấy rằng giữa nguyên đơn và bị đơn đã ký kết nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa loại thép không gỉ với nhiều chủng loại, số lượng và mức giá khác nhau, số lượng hàng hóa và tiền giao dịch là rất lớn, thông qua rất nhiều lần giao nhận hàng hóa.
Việc thanh toán giữa hai bên được thực hiện ngay khi lấy hàng hoặc thanh toán sau khi đã nhận hàng. Các chứng từ thanh toán tiền hàng của bị đơn cho thấy việc thanh toán từng lần được thực hiện theo từng hóa đơn giá trị gia tăng hoặc thanh toán cho nhiều hóa đơn, có lúc lại thanh toán cho một phần hóa đơn này kèm với một số hóa đơn khác hay chỉ ghi thanh toán tiền hàng mà không ghi rõ cho hóa đơn nào chứ không theo từng lần giao hàng.
Các bên sau nhiều đợt giao hàng, thanh toán, đối chiếu công nợ, thực tế cho thấy có sự giao hàng trước thanh toán sau, được thể hiện trong các văn bản đối chiếu và xác nhận nợ. Theo HĐXX, rõ ràng giữa hai bên đã hình thành và tồn tại thói quen thương mại về việc mua bán giao nhận hàng hóa và thanh toán, điều này phù hợp quy định của Luật Thương mại về thói quen thương mại.
Tại tòa, hai bên đã tiến hành đối chất để làm rõ những mâu thuẫn. Phía bị đơn đặt câu hỏi liệu có hay không việc Posco VST đã bị mất một lượng hàng hóa lớn bởi chính các nhân sự của Posco VST, do đó Posco đã tìm cách dàn dựng số liệu, công nợ với Thành Nam nhằm hợp thức hóa giá trị hàng mất kể trên.
Phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đại diện VKS cho rằng bị đơn Thành Nam bác bỏ quan điểm của Posco VST nhưng không đưa ra được chứng cứ cụ thể. Nguyên đơn Posco VST có chứng cứ là các công văn, biên bản xác nhận công nợ trong đó Kế toán trưởng có ký ủy quyền của đại diện theo pháp luật của Thành Nam.
Tòa khẳng định bị đơn còn tồn tại khoản nợ tiền mua hàng hóa với nguyên đơn và việc nguyên đơn khởi kiện đòi bị đơn thanh toán số tiền hàng còn nợ hơn 58 tỉ đồng là có căn cứ. Ngoài ra, bị đơn phải thanh toán tiền lãi chậm trả đối với khoản tiền hàng đã nhận mà chưa thanh toán là hơn 42 tỉ đồng.
Từ những phân tích trên, tòa chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn thanh toán khoản tiền hàng còn nợ là hơn 58 tỉ đồng và tiền lãi do chậm thanh toán hơn 42 tỉ đồng, tổng cộng số tiền là hơn 100 tỉ đồng.