Trước khi xảy ra hỗn loạn, GDP toàn cầu đang tăng với tốc độ hàng năm là 3%. Ở một số quốc gia, thị trường việc làm bùng nổ. Đến nay, gần như chưa có bằng chứng rõ nào cho thấy mức tăng trưởng bị chậm lại.
Vẫn còn sớm để khẳng định về viễn cảnh bi quan. Song, các nhà kinh tế có 2 yếu tố để lo lắng. Thứ nhất, là sự không chắc chắn. Nếu mọi người lo sợ khủng hoảng ngân hàng, mức tiêu dùng và đầu tư sẽ giảm. Thứ hai, là vấn đề tín dụng. Các tổ chức tài chính vì sợ thua lỗ có thể rút lại việc cho các công ty vay vốn. Dù vậy, có lý do để tin rằng những bất ổn gần đây sẽ có tác động ít hơn lo ngại.
Một nghiên cứu của IMF chỉ ra cho thấy, những bước nhảy vọt mạo hiểm có thể làm giảm mức tăng trưởng GDP hàng năm 0,5% - phần lớn là do các công ty trì hoãn đầu tư. Nếu điều này thành hiện thực, tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm từ 3% xuống 2,5%.
Tuy nhiên, trừ khi tình trạng hỗn loạn tiếp tục, tác động dường như không đáng kể. Sự sụp đổ của các ngân hàng gây ra hệ quả không lớn. Một cuộc khảo sát của công ty thăm dò ý kiến Ipsos cho thấy, từ đầu đến giữa tháng 3.2023, niềm tin của người tiêu dùng Mỹ đã tăng lên. Tâm lý kinh doanh ở Đức cũng được cải thiện trong tháng 3. Kết quả tìm kiếm trên Google về các cụm từ liên quan đến “khủng hoảng ngân hàng” dù đã tăng vọt vào đầu tháng 3 nhưng cũng đã giảm trở lại.
Thật khó để nói tại sao mọi người lại sợ như vậy. Có lẽ sau dịch bệnh và xung đột, các vấn đề trong ngành ngân hàng dường như dễ kiểm soát hơn. Hoặc, mọi người nghĩ rằng Chính phủ sẽ can thiệp để bảo vệ họ.
Nhiều nhà kinh tế lo lắng hơn về vấn đề thứ hai: tín dụng. Nếu các công ty không có nguồn tài chính, họ đã không thể phát triển dễ dàng như vậy. Trong những năm sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009, thị trường tín dụng bị đổ vỡ đã kìm hãm cả sự phục hồi kinh tế ngắn hạn và tăng trưởng năng suất dài hạn.
Sau sự sụp đổ của SVB, thị trường vốn đã đóng băng. Sự thiệt hại của các ngân hàng là minh chứng rõ ràng nhất. Kể từ đầu tháng 3, giá cổ phiếu của các ngân hàng toàn cầu đã giảm hơn 10%. Nghiên cứu cho thấy, giá cổ phiếu giảm có xu hướng ảnh hưởng đến tăng trưởng cho vay. Các ngân hàng cũng có thể cắt giảm cho vay nếu nhận thấy dòng tiền gửi chảy ra ngoài hoặc có nhu cầu huy động vốn. Thật vậy, theo ngân hàng Goldman Sachs, việc cho vay bị ảnh hưởng có nghĩa là mức tăng trưởng sẽ giảm 0,4% ở cả Mỹ và khu vực đồng euro. Tình trạng hỗn loạn có thể gây tổn hại nhiều hơn cho các ngân hàng Mỹ, nhưng nền kinh tế khu vực đồng euro phụ thuộc nhiều hơn vào hoạt động cho vay của ngân hàng. Điều này có thể cắt giảm tăng trưởng toàn cầu hơn nữa, từ 2,5% xuống khoảng 2%.
Mặc dù cuộc khủng hoảng ngân hàng gần đây hầu như không phải là tin tốt, nhưng không có nghĩa là nền kinh tế thế giới đến bờ vực. Một ngân hàng yếu kém có thể gây ra một vòng xoáy đi xuống. Lãi suất tăng sẽ tiếp tục cản trở tăng trưởng cho đến khi các ngân hàng Trung ương đánh giá công việc chống lạm phát đã hoàn thành. Song, cũng có những lực tác động theo hướng khác. Thứ nhất, là sự phục hồi của Trung Quốc. Các nhà kinh tế kỳ vọng nền kinh tế thứ hai thế giới sẽ tăng trưởng hơn 7% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý II/2023. Trong khi đó, các nút thắt trong chuỗi cung ứng hầu hết đã được nới lỏng và giá năng lượng đã giảm. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu nền kinh tế thế giới vẫn phục hồi.