Hiện nay, các ngành chức năng tỉnh Lâm Đồng đang xây dựng Đà Lạt trở thành thành phố di sản để giữ gìn kho báu này cho muôn đời sau người dân vẫn có thể khai thác, phát triển bền vững ngành công nghiệp không khói.
Kỳ 1: Hành trình 130 năm Đà Lạt phát triển ngành công nghiệp không khói
Từ khi bác sĩ Yersin khám phá ra cao nguyên Lang Biang thì 130 năm qua Đà Lạt đã biến những thế mạnh về cảnh quan, khí hậu, công trình di sản… để thúc đẩy phát triển ngành du lịch.
Nơi hòa quyện của thiên nhiên, kiến trúc và văn hóa
Từ xa xưa, Đà Lạt là địa bàn cư trú của cư dân người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Năm 1893 khi bác sĩ Yersin khám phá ra cao nguyên Lang Biang, đánh dấu sự ra đời 130 năm hình thành và phát triển một đô thị nghỉ dưỡng hôm nay.
Trong nửa đầu thế kỷ 20, từ một địa điểm hoang vu, người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên một thành phố xinh đẹp với những biệt thự, công sở, khách sạn, trường học, trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương ngày đó.
Với độ cao khoảng 1.500m so với mực nước biển và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật bao quanh, Đà Lạt được thiên nhiên ban tặng cho khí hậu ôn hòa và dịu mát quanh năm.
Từ đó đến nay, Đà Lạt là vùng đất được nhiều người biết đến với những cái tên đầy trìu mến như “thành phố ngàn hoa”, “thành phố ngàn thông”, “Paris thu nhỏ”, “thành phố sương mờ”, “xứ hoa anh đào”…
Ngoài ra, Đà Lạt cũng có hàng loạt danh lam thắng cảnh đã trở thành những điểm du lịch nổi tiếng như: Chợ Đà Lạt, hồ Xuân Hương, hồ Tuyền Lâm, đỉnh Langbiang, Thiền viện Trúc Lâm, ga Đà Lạt, nhà thờ Con Gà...
Đặc biệt, với khí hậu quanh năm mát mẻ, hàng năm Đà Lạt đã đón hàng triệu lượt khách du lịch trong nước và quốc tế đến đây nghỉ dưỡng để tạm tránh khỏi cái nóng nực oi bức, khói bụi…
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Phạm S, ngoài được thiên nhiên ban tặng khí hậu trong lành, quanh năm ôn hòa thì đô thị Đà Lạt còn là nơi hội tụ, sinh sống của 20 dân tộc anh em.
Thế nên, Đà Lạt có nguồn tài nguyên nhân văn mang đậm bản sắc truyền thống với nhiều phong tục tập quán, kiến trúc nhà ở, lễ hội văn hóa dân gian đặc sắc. Bên cạnh đó, Đà Lạt còn được biết đến với kiến trúc độc đáo của những tòa lâu đài và biệt thự.
Đặc biệt, Đà Lạt đang sở hữu ba di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận: Di sản văn hóa phi vật thể, di sản tư liệu "Mộc bản triều Nguyễn" và "Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên".
Không chỉ có vậy, Đà Lạt đã được UNESCO công nhận là thành viên của Mạng lưới thành phố sáng tạo toàn cầu lĩnh vực âm nhạc. Đặc biệt, Langbiang được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới thứ 9 của Việt Nam và đầu tiên ở khu vực Tây Nguyên.
Theo ông Phạm S, Đà Lạt là vùng đất hứa đã lôi cuốn, giữ chân biết bao cư dân khắp mọi miền đất nước từ lúc khai thiên lập địa cho đến hôm nay để cống hiến và phát triển tài năng.
Họ luôn say mê lao động sáng tạo, phát huy trí tuệ vun đắp trong quá trình hình thành phát triển đã tạo ra những sản phẩm sáng tạo rất phong phú về: văn hóa, ẩm thực, mỹ thuật, thủ công mỹ nghệ, âm nhạc, kiến trúc, thiết kế, văn học, nhiếp ảnh, điện ảnh… Đồng thời tạo nên phong cách người Đà Lạt “hiền hoà - thanh lịch - mến khách”.
Du lịch đang nuôi sống nhiều người dân Đà Lạt
Hàng chục năm qua, ở thành phố Đà Lạt không chỉ có hệ thống nhà hàng, khách sạn, các điểm tham quan khu du lịch, các hãng xe khách, taxi… cũng gắn hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng ngày với ngành công nghiệp không khói.
Hiện nay, ở thành phố Đà Lạt đang có rất nhiều người dân, thậm chí nhiều lao động phổ thông đang sống dựa vào sự phát triển của du lịch.
Năm 1991, bà Hoàng Thị Sở từ tỉnh Ninh Bình đến thành phố Đà Lạt lập nghiệp. Trên vùng đất mới, bà Sở xây dựng gia đình và có 4 người con. Hiện các thế hệ gia đình bà Sở đã sinh sống ổn định, phát triển tốt đẹp tại Đà Lạt hàng chục năm nay.
Kể về Đà Lạt, bà Sở cho biết đây là nơi “đất lành chim đậu”. Khi vừa đến đây bà Sở đã hết mực yêu quý vùng đất này và thực sự xem đây quê thứ hai của mình. Năm 1993, ở Đà Lạt du lịch chưa bùng nổ, phát triển mạnh như bây giờ.
Là lao động phổ thông, không có đất đai sản xuất nên từ những ngày đầu mới đặt chân đến thành phố Đà Lạt, bà Sở đã chọn công việc bán hàng lưu niệm ở khu Hòa Bình để phục vụ nhu cầu của du khách.
Đó là khu dân cư, hàng ngày có nhiều du khách đến thăm quan, mua sắm nên công việc buôn bán của bà Sở khá thuận lợi. Ít năm sau, đến năm 1996, bà Sở chuyển hẳn sang địa điểm kinh doanh mới ở trong ga Đà Lạt và buôn bán hàng hóa lưu niệm từ đó cho đến nay.
“Du lịch ở Đà Lạt phát triển nên những lao động tự do như chúng tôi đã biết cách tự tạo việc làm cho bản thân. Đó là việc kinh doanh, bán hàng cho khách du lịch. Từ công việc này mà vợ chồng tôi đã nuôi dạy 4 đứa con ăn học nên người” - bà Sở phấn khởi.
Tương tự, ông Nguyễn Trung Ân đã có nhiều năm làm nghề điều khiển xe ngựa chở du khách vãn cảnh quanh hồ Xuân Hương và nhiều địa điểm nên thơ khác ở thành phố Đà Lạt. Theo ông Ân, ngày trước, du khách đến Đà Lạt rất yêu thích cảm giác ngồi xe ngựa và lòng vòng các tuyến đường để ngắm rừng thông, sương mù, hoa cỏ...
Năm nay đã ngoài 70 tuổi, ông Nguyễn Trung Ân vẫn còn nhớ như in trong tiềm thức tiếng vó ngựa lốc cốc trên những con đường gập ghềnh của Đà Lạt ngày trước. Ngày đó, ông Nguyễn Trung Ân mưu sinh bên chiếc xe ngựa nhưng cuộc sống luôn tràn ngập niềm vui.
“Thời xưa xe ngựa nhiều, công việc tuy vất vả nhưng một người chạy xe có thể nuôi sống cả nhà và chu cấp cho con cái học hành đến nơi đến chốn. Thế nên, vào những thập niên 90 thế kỷ trước, ở đây có trên dưới 500 xe ngựa.
Đấy là thời huy hoàng của nghề xe ngựa. Ngày nay, các phương tiện như ô tô, xe điện thay thế... thì con cái, cháu chắt chúng tôi đã chuyển sang các nghề khác để mưu sinh và vẫn biết ơn về sự phát triển du lịch ở Đà Lạt” - ông Ân cho biết thêm.