Sự chuyển động của thơ Việt
Tại tọa đàm “Từ bản lĩnh đến bản sắc nhà thơ” trong khuôn khổ Ngày thơ Việt Nam lần thứ 22, giới chuyên môn bàn những vấn đề đáng suy ngẫm trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa. Thơ Việt Nam đã đi qua những giai đoạn lịch sử dài, có nhiều đổi mới và biến động.
Xét về bối cảnh, Thơ mới là kết quả của quá trình gặp gỡ giữa văn hóa - xã hội Việt Nam truyền thống, đậm màu sắc phương Đông với những sắc thái mới, hiện đại đến từ phương Tây.
Năm 1932, trên “Tập văn Mùa xuân” của Báo Đông Tây, bài viết “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, cùng với bài “Tình già” của Phan Khôi đã chính thức khai sinh trào lưu Thơ mới. Chỉ trong khoảng 1932-1945, Thơ mới đã từng bước xác lập địa vị thống trị trên thi đàn, với những tên tuổi nổi bật như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đinh Hùng...
Thơ Việt Nam sau năm 1975 vẫn đang chuyển động như một yêu cầu không thể thiếu của cuộc sống với sự đa dạng, phong phú hơn. Trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa, văn hóa nói chung, văn học nói riêng cũng thay đổi như một xu hướng tất yếu. Khi thơ ca chịu ảnh hưởng của những yếu tố ngoại lai, cả mặt tích cực và tiêu cực đều có tác động sâu sắc tới nền văn học nước nhà.
Những nỗ lực đổi mới thơ ca trong vòng quay của lịch sử văn học vẫn diễn ra. Bây giờ, chúng ta vẫn chứng kiến những hoạt lực ấy trong thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Trương Đăng Dung, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Thị Thúy Hạnh...
Có nhiều cách để đưa thơ tới công chúng, hoặc là cách tân theo lối Tây Âu, hoặc là trở về truyền thống. Dù theo xu hướng nào thì thơ phải luôn được đổi mới. Thơ trung đại hay thơ cách tân đều phải đổi mới. Đổi mới cả nội dung lẫn hình thức. Đó là quy luật phát triển của thơ.
Khi hiện thực cuộc sống đổi thay, cái tôi cá nhân trỗi dậy mạnh mẽ, thì thơ mang dấu ấn của người sáng tác rất rõ. Ai chưa tạo ra được dấu ấn này coi như chưa thành công trong sáng tác thơ.
Thơ ca trong dòng chảy đời sống
Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: “Thơ cần có ích. Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi”. Ý thức về dân tộc, đất nước nhắc gọi người làm thơ phải sống và viết với ý thức trách nhiệm cao, chỉ có như vậy người làm thơ mới sống trọn vẹn trước trang giấy của mình. Thơ ca cách tân và đổi mới qua nhiều thời kỳ. Và cách duy nhất để phân biệt nhà thơ này với nhà thơ khác, chính là ở nội dung đời sống mà họ phản ánh.
Cái gọi là bản sắc thơ đã làm nên những tên tuổi tài danh vang bóng một thời, làm nên những “vũ trụ thơ” đặc sắc trong thi ca Việt Nam: một Tố Hữu băn khoăn đi tìm chân lý, suốt đời vì lý tưởng cộng sản. Một Xuân Diệu mê đắm tình ái. Một Huy Cận với cảm quan vũ trụ. Một Chế Lan Viên với tâm trạng trăn trở về thân phận dân tộc. Hoặc một thi hào Nguyễn Du với nỗi cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người trong xã hội phong kiến, nhất là người phụ nữ...
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến chia sẻ tại tọa đàm “Từ bản lĩnh đến bản sắc nhà thơ” như sau: “Theo tôi, thơ ca là nền nghệ thuật chia sẻ với con người, là cuộc đối thoại của nhà thơ với thời đại của họ để mang lại hy vọng cho những khổ đau và mất mát mà con người đã phải chịu đựng khi đi qua thế gian này. Tôi nghĩ, một nhà thơ đích thực phải biết cách khắc hoạ bằng ngôn ngữ của thơ - nỗi đau của những phận người và phải chạm được vào cõi sâu của tâm hồn con người không chỉ bằng sự phá vỡ sắc cạnh của lý trí mà còn bằng cảm xúc của trái tim - những cảm xúc được tái hiện từ cái chất liệu đời thường còn rớm máu và khó nhọc này”.
Trong sự cảm nhận, người đọc luôn mong tìm được những gì là mới hơn, lạ hơn từ những tác giả cả quen lẫn mới. Làm được điều đó, đòi hỏi người cầm bút liên tục tích lũy, rèn giũa, thử nghiệm để làm mạnh mẽ hơn cá tính trong sáng tạo. Và làm được việc đó bằng thâm nhập thực tế, nắm bắt những biến động đời sống, mở rộng đề tài, thử sức với những ý tưởng mới, đối diện những vấn đề thời sự, thế sự, những thực trạng tưởng chừng khó tiếp cận và truyền tải qua thơ.