Ngày nay, bệnh bạch hầu đã có vắc-xin tiêm phòng trong chương trình tiêm chủng mở rộng, nhưng vẫn còn là mối đe dọa cho sức khỏe cộng đồng nếu như người dân không đảm bảo điều kiện môi trường sống và không tiêm chủng ngừa bệnh đầy đủ.
Bệnh không liên quan đến chủng tộc, giới tính, trẻ em từ 6-12 tháng tuổi dễ mắc bệnh do kháng thể từ mẹ truyền sang đã suy giảm nhiều. Trong những năm gần đây, bệnh bạch hầu xuất hiện nhiều ở trẻ vị thành niên và người trên 40 tuổi.
Tại Việt Nam, từ trước đến nay, do chương trình tiêm chủng bạch hầu khá tốt trên cả nước nên bệnh bạch hầu được khống chế, thỉnh thoảng có xảy ra các ổ dịch lẻ tẻ nhưng chưa có đại dịch. Đối tượng mắc bệnh chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi và trẻ vị thành niên, ở người trưởng thành hiếm gặp.
Tác nhân gây bệnh bạch hầu là vi khuẩn Corynebacterium diphtheria, hình cầu, có dạng quả tạ đôi, vi khuẩn không có vỏ bọc, bắt màu với thuốc nhuộm gram. Chủng vi khuẩn gây bệnh thường xâm nhập chủ yếu vào đường hô hấp trên, đôi khi chúng xâm nhập vào vị trí ngoài da, vi khuẩn hiếm khi phát tán theo đường máu gây bệnh toàn thân. Một trong những đặc tính nguy hiểm của vi khuẩn bạch hầu là tiết ra ngoại độc tố (exotoxins). Vi khuẩn bạch hầu dù xâm nhập vào một vị trí hay phát tán toàn thân đều tiết ra ngoại độc tố. Khả năng tiết ngoại độc tố được mã hóa trên gen và truyền từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác.
Ngoài ra, còn chủng Corynebacterium ulcerans hiếm gặp hơn, gây bệnh bạch hầu thể ngoài da, vi khuẩn này do thú truyền sang người, khi người làm những nghề tiếp xúc thường xuyên với thú như chăn nuôi gia súc, chăm sóc thú ở thảo cầm viên…
Đường lây truyền và triệu chứng lâm sàng
Bệnh bạch hầu thường xảy ra ở nơi có điều kiện sống thấp kém, đông đúc, chật chội và người dân không được chủng ngừa đầy đủ. Bệnh thường xuất hiện vào mùa thu và đông, khi thời tiết mát mẻ, ẩm ướt tạo điều kiện cho vi khuẩn lan truyền theo đường hô hấp.
Khi người dân trong cộng đồng thiếu hụt miễn dịch hệ miễn dịch - đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn bạch hầu) - sẽ dễ mắc bệnh bạch hầu và là nguồn lây lan trong cộng đồng. Người mang vi khuẩn bạch hầu chính là nguồn tàng trữ bệnh. Bệnh lây qua đường hô hấp khi người lành hít phải các dịch tiết đường hô hấp trên của người mang vi khuẩn bạch hầu như: Chất tiết mũi họng, các giọt khí dung khi ho, hoặc dịch nôn ói.
Khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn bạch hầu sẽ bám dính vào màng tế bào, chúng tiết ra ngoại độc tố, gồm 2 thành phần protein B và protein A, thành phần protein B gây ly giải vách tế bào, tạo điều kiện cho thành phần protein A xâm nhập vào trong tế bào, gây nên hiện tượng chết tế bào. Việc phá hủy tế bào tại nơi xâm nhập sẽ tạo điều kiện để độc tố bạch hầu lan tỏa khắp cơ thể bằng đường máu hoặc đường bạch huyết, gây tổn thương các cơ quan ở xa hơn như cơ tim, thận và hệ thần kinh trung ương.
Nhìn chung, tỉ lệ tử vong của bệnh bạch hầu là 5-10%, ở trẻ em dưới 5 tuổi hoặc người trên 40 tuổi, tỷ lệ này tăng lên 20%. Tỉ lệ tử vong do bệnh bạch hầu không thay đổi trong nhiều thập niên qua. Việc chủng ngừa có ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ tử vong. Trường hợp có nhiễm trùng huyết do vi khuẩn bạch hầu, tỉ lệ tử vong vào khoảng 30-40%.
Thời kỳ ủ bệnh từ 2-5 ngày, bệnh khởi đầu với các triệu chứng sốt nhẹ, viêm đường hô hấp trên không đặc hiệu như ho, đau họng, sổ mũi, mỏi mệt, nhức đầu… Tuy nhiên, sau đó bệnh nhân sẽ nổi bật triệu chứng đau họng, sưng nhẹ vùng hầu họng và sẽ bắt đầu xuất hiện các màng trắng hay còn gọi là giả mạc ở lưỡi, xung quanh vòm hầu, nhiều nhất là thành sau hầu. Khi đẩy giả mạc qua một bên, có thể thấy xuất huyết bên dưới. Giả mạc có màu trắng đục, là hỗn hợp của các mô hoại tử, bạch cầu, hồng cầu… Bệnh nhân bị sưng hạch, cổ bạnh, thở khò khè, có thể tử vong do tắc nghẽn khí quản do hít phải giả mạc.
Những biến chứng nguy hiểm
Biến chứng tim thường xảy ra vào tuần thứ 1 hoặc 2 của bệnh, có các biến chứng sau: Biến chứng viêm cơ tim, chiếm trên 60% trường hợp, gây suy tim, trụy tim mạch và tử vong; Biến chứng block nhĩ thất là sự mất dẫn truyền xung nhịp từ nhĩ xuống thất, gây rối loạn nhịp tim, ngưng tim; Viêm màng trong tim (viêm nội tâm mạc); Biến chứng thần kinh có thể xuất hiện từ ngày thứ 10 - 3 tháng sau khi khởi bệnh.
Độc tố của vi khuẩn bạch hầu có thể gây liệt cơ vận nhãn, liệt mặt, liệt cơ vùng hầu họng, liệt cơ thanh quản…
Bệnh cần phải được chẩn đoán sớm và điều trị sớm để tránh khỏi tử vong. Trước tiên, bệnh nhân được tiêm giải độc tố bạch hầu DAT, sau đó sử dụng kháng sinh dạng tiêm đặc hiệu như penicillin G, hoặc nhóm macrolides như Erythromycin trong 2-3 tuần.
Tiêm chủng vắc-xin là biện pháp phòng ngừa chủ động có hiệu quả hiện nay. Hiện có các liều vắc-xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu như Quinvaxem (trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia) hoặc DTP, Td, do đó người dân nên chủ động tiêm ngừa vắc-xin để phòng bệnh, như: Trẻ sơ sinh nên tiêm đủ các mũi DTP ở tháng thứ 2, 4, 6 sau khi sinh, khi trẻ được 12-18 tháng tuổi, khi trẻ được 4-6 tuổi; Người lớn, tiêm vắc-xin Td và lập lại mỗi 10 năm/lần.
Trong vùng dịch, ổ dịch, khi tiếp xúc với người viêm họng, ho, sổ mũi, phải sử dụng khẩu trang che mặt, rửa tay trước và sau khi tiếp xúc với người bệnh.