Trong căn nhà bình dị giữa lòng TP. Cần Thơ náo nhiệt, đại tá Võ Hồng Thanh tiếp tôi với tâm trạng xúc động khi nghe nhắc đến hai tiếng Thổ Châu. “Đó là trận đánh đáng nhớ nhất trong đời binh nghiệp - ông Thanh tự hào - lính bộ binh đi đánh trên biển, thiếu đủ thứ, nhưng lại thắng thần tốc”.
Theo lời ông Thanh, cả tiểu đoàn chỉ có 1 khẩu cối 82 là hỏa lực mạnh, lại do không rành địa hình, địa vật, phòng bố của địch… “Vì vậy để rút ngắn bất lợi này, đơn vị tuyển chọn những người chiến đấu tinh nhuệ, gan dạ, nói “chữ nghĩa” một chút là những chiến binh. Tiểu đoàn có 3 đại đội, nhưng chỉ tuyển được 110 người tham gia chiến đấu”.
“Trung đoàn nhận định nhiều khả năng địch bố trí lực lượng tập trung quân tại bãi Ngự, bãi Dong và bãi Nhứt, nên sau khi bàn bạc, thống nhất đổ quân và đồng loạt nổ súng lúc 0 giờ ngày 24.5.1975. Trong đó Tiểu đoàn 410 tấn công khu vực bãi Ngự, bãi Nhứt; khu vực Bãi Dong do đội đặc công thủy cùng địa phương quân phụ trách…”, ông Thanh nhớ lại. 4 giờ ngày 24.5.1975, nhìn thấy nóc nhà dân dưới ánh sáng lờ mờ, xác định đúng khu vực bãi Ngự, ông Thanh triển khai đội hình chiến đấu.
Cựu binh Đại đội địa phương giải phóng Thổ Châu tháng 5.2015 (trái sang: Phạm Văn Mận, Võ Văn Bình, Nghiêm Văn Thành). Ảnh T.L |
Đến 11 giờ, địch co lại thành 3 cụm rồi dựng công sự tạm ven biển chống trả yếu ớt, sau đó tháo chạy khỏi bãi Ngự, rút lên đỉnh núi. Sáng 25.5.1975, ông Thanh quyết định áp dụng chiến tranh “công tâm”: Không sử dụng vũ trang mà dùng loa gọi hàng. Độ chục phút sau, địch từ đỉnh núi mang vũ khí xuống đầu hàng, ta bắt giữ được 105 tên. Qua khai thác, chúng khai còn 2 trung đội đóng ở hòn Cao và hòn Từ. Cũng với chiến thuật “công tâm”, ta chọn 5 tên địch có uy tín kêu gọi tàn quân còn lại ra hàng. Ta kết thúc chiến dịch, giải phóng hoàn toàn Thổ Châu mà không tốn thêm một viên đạn”.
Vẫn nằm lại chiến trường
Đang sôi nổi nhắc lại cuộc chiến đấu giữa trùng khơi với những đồng đội cũ, bất giác thượng tá Phạm Văn Mận - Chủ tịch Hội CCB huyện Phú Quốc đột ngột hỏi: “Không biết thân xác của Năm “Tràu Lóc” giờ ở đâu”? Tôi ngước nhìn, những gương mặt dạn dày lửa đạn chiến tranh bỗng mềm ra, những đôi mắt mờ đục của tuổi xưa nay hiếm đang rơm rớm…
Năm “Tràu Lóc” là biệt danh mà đồng đội đặt cho Nguyễn Đức Thuận (SN 1954) vì có thói quen gọi cá lóc là cá tràu. Anh Thuận là dân miền Trung, sau bị bắt đưa ra “nhà lao Cây Dừa” (Phú Quốc), vượt ngục rồi gia nhập địa phương quân Phú Quốc, cầm súng đánh đuổi kẻ thù từ năm 1971.
Ngày thống nhất đất nước, anh Thuận định về quê thăm người thân, nhưng do thành tích chiến đấu gan dạ, mưu trí trong những ngày đánh Mỹ, anh danh dự được chọn vào Đại đội địa phương đi giải phóng Thổ Châu. “Năm “Tràu Lóc” chết ngay khi vừa kết thúc trận đánh giải phóng đảo”, lời kể của ông Võ Văn Bình, (tự Bình Sóc) người trực tiếp chứng kiến cái chết của anh Thuận.
Sau khi giải phóng trận địa do Đại đội địa phương phụ trách, trên đường rút quân về, ông Bình phát hiện công sự của địch còn khá nguyên vẹn nằm sát chân núi nên gọi Năm “Tràu Lóc” đến xem xét thì bị 1 tàn quân bên trong nổ súng. “Tôi thấy anh ấy ngã xuống ngay miệng hầm rồi lọt hẳn vào bên trong lô cốt. Tôi vác khẩu B40 ra nhắm ngay lô cốt bóp cò quả cuối cùng, nhưng đạn bị lép nên hối chiến sĩ Đạt (sau này bệnh mất) chạy qua bãi Ngự nơi Tiểu đoàn 410 đóng quân mượn khẩu B41 về bắn 1 quả”, ông Bình kể. Sau tiếng nổ long trời, ông Bình chạy tới, nhưng tất cả đã tan thành mảnh vụn.
Năm đó anh Thuận tròn 21 tuổi. Do phải chấp hành lệnh làm nhiệm vụ khẩn cấp, ông Bình chỉ kịp đánh dấu địa điểm để lần sau trở lại làm mộ cho người đồng đội rồi xuống tàu cùng đại đội trở lại Phú Quốc. Năm 1976 anh Thuận được công nhận liệt sĩ. Còn ông Bình, do những bận rộn của những ngày đầu giải phóng, đến năm 1981, xin nghỉ phục viên thì lại vướng vào những lo toan của cuộc sống gia đình 6 người con, nên mãi đến nay vẫn chưa một lần quay lại. Còn anh Thuận, do chưa có vợ con, lại mất liên lạc với gia đình ở miền Trung nên cũng chẳng ai cất công đi tìm. Thậm chí “Bằng Tổ quốc ghi công” của anh cũng được gởi tạm nhà của người “sơ giao” ở Phú Quốc.
Một số, hai số hay... vô số?
Dưới linh vị và bàn thờ ở “Đền tưởng niệm đảo Thổ Châu” hiện có dòng chữ: “Trên 500 người dân bị Pôn - pốt xâm lược thảm sát tháng 5.1975”. Tuy nhiên ngoài có số 500, thực tế lại có quá nhiều con số khác: 513, 518, thậm chí là 600 người... Ông Châu Phước Thái, nguyên là “nghĩa quân” xã Thổ Châu (1970-1974) không hiểu vì sao và từ đâu có con số 513 người dân Thổ Châu “mất tích”?
Ông nghi ngờ tư liệu này vì thực tế số dân trên đảo lúc đó không hơn 200 người. Đồng tình với số liệu này, ông Nguyễn Thái Học (hiện sống tại thị trấn An Thới, Phú Quốc) người có nhiều gắn bó với Thổ Châu trước và sau năm 1975, cho biết thêm: Năm 1972-1974 khi ra đây dạy học, Thổ Châu chỉ lác đác hơn chục ngôi nhà tập trung chủ yếu tại khu vực bãi Ngự”.
Tương tự, ông Nguyễn Văn Sĩ, chủ của gia đình duy nhất may mắn thoát chết trong đoàn người bị Pôn - pốt chở đi biệt tích cũng khẳng định dân số Thổ Châu thời điểm đó không hơn 500 người: “Dân số ở Thổ Châu “biến động” theo mùa. Mùa nắng, dân tứ xứ đến khai thác hải sản, từ cuối tháng 4 âm lịch, biển Tây vào mùa sóng to, gió lớn, hầu hết kéo nhau về quê cũ”.
Điều này cũng trùng khớp với số liệu của Thiếu tướng Lê Xã Hội - nguyên Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng QK 9 cung cấp cho chúng tôi: Có khoảng 150 người dân bị chở đi và toàn bộ bị giết. “Nhờ biết tiếng Khmer nên tôi đã trao đổi và được “hàng binh” tên Dân cung cấp thông tin này”, ông Hội quả quyết.
Nhớ lại không phải để căm thù...
Có bao nhiêu người dân trên đảo Thổ Châu bị mất tích thời điểm đó? Giờ họ sống - chết ra sao, ở đâu? Những câu hỏi ấy cứ ray rứt, thôi thúc tôi tìm đến nhiều cơ quan chức năng với kỳ vọng việc tiếp cận với “chính sử” để chạm tay vào sự thật, nhưng…
Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kiên Giang Diệp Hoàng Du cáo lỗi do “chính sử” của Kiên Giang chỉ mới đến giai đoạn 30.4.1975 và “kết nối” tôi đến BCH Quân sự tỉnh Kiên Giang. Nhưng nơi đây cho biết, không có hồ sơ, thông tin vì thời điểm ấy, Thổ Châu thuộc huyện Hà Tiên của tỉnh Long Châu Hà, tức An Giang. Tôi đến An Giang, nhưng các cơ quan chức năng ở đây cũng “bó tay”.
Thậm chí ngay cả tấm ảnh tư liệu về sự kiện này cũng không có do “thời điểm đó thiếu phương tiện ra hiện trường tác nghiệp” - như lý giải của ông Lê Ngọc Bích, cựu phóng viên Báo An Giang, tác giả của nhiều bộ ảnh “độc” trong đó có bộ ảnh Pôn - pốt thảm sát toàn dân xã Ba Chúc (An Giang) năm 1978.
Sau 40 năm, liệu có quá muộn để hồi sinh đoạn sử từ nguồn dữ liệu đang rất mỏng, rời rạc và mờ nhạt teo tóp dần theo năm tháng? Sẽ không có gì là quá muộn, nếu chúng ta quyết tâm góp nhặt những mảnh ký ức từ hôm nay. Bởi bên cạnh những nhân chứng mà chúng tôi đề cập, theo đại tá Võ Hồng Thanh, vào thời điểm giải phóng Thổ Châu, trên đảo vẫn còn 13 người dân như Danh Thương, Chín Hải, Hai Duyên... Có thể trong số này có người đã quy tiên, nhưng nếu cố công truy tìm, tổ chức buổi tọa đàm và xử lý thông tin đúng theo phương pháp khoa học của người làm sử, chúng ta vẫn còn hy vọng.
“Sự kiện Thổ Châu với sự mất tích của hàng trăm người dân vô tội có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Vì thế chúng ta phải chung tay “hồi sinh” để nhớ nhắc hôm nay và mai sau không được phép quên đoạn sử bi hùng này theo tinh thần: Không phải để căm hận, nuôi dưỡng sự trả thù, mà biết sợ những mất mát do chiến tranh mang lại để yêu chuộng hòa bình”. Chúng tôi xin mượn lời Thiếu tướng Lê Xã Hội kết thúc bài viết này như một thông điệp để các cơ quan hữu trách sớm vào cuộc trước khi quá muộn.