Thưa ông, đâu là cơ duyên đưa ông đến với ngành thủy sản và hành trình đưa cá basa, cá tra sang Mỹ như thế nào?
- Tháng 10.1998, cùng với phái đoàn của Hoa Kỳ, tôi có dịp trở về Việt Nam. Tại Hà Nội, chúng tôi gặp gỡ Tiến sĩ Tạ Quang Ngọc - nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản Việt Nam - cũng là thời điểm đánh dấu sự kiện thành lập Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam. Kế đến, 11 người chúng tôi tiếp tục di chuyển qua nhiều địa phương và cuối cùng là tham quan tại một lồng bè nuôi cá basa ở tỉnh An Giang.
Lúc đó, tôi giật mình khi thấy cá basa giống catfish (bộ cá da trơn) ở Mỹ. Bằng kiến thức và linh cảm, tôi khẳng định với mọi người, đây là mỏ vàng của Việt Nam. Trăn trở về cá basa của Việt Nam sau chuyến công tác, tôi cùng con gái là Christine Ngo quyết định triển khai loạt chiến lược để quảng bá cá basa rộng khắp thị trường Mỹ.
Tháng 3.1999, nhân dịp có tổ chức Hội chợ triển lãm quốc tế thủy sản Boston, chúng tôi mời một đầu bếp chuyên chế biến cá da trơn ở Mỹ để làm ra một số món ăn phục vụ khách tham quan. Thấy mọi người ưa thích, tôi tiếp tục làm các thông tin giới thiệu, quảng cáo, mở rộng thị trường và bắt đầu nhập khẩu cá basa phi lê từ Việt Nam sang.
Được biết giai đoạn đầu, cá basa vẫn chưa có tên thương hiệu trên thị trường Mỹ, vậy, ông đã làm thế nào để từng bước định vị được cá basa ở xứ cờ hoa?
- Đó là một quá trình gian nan, chúng tôi phải đọc rất nhiều tài liệu, đồng thời liên hệ với nhiều nhà khoa học để nghiên cứu.
Chúng ta biết rằng sông Mekong chảy qua nhiều nước và đến nước nào thì nước đó đặt cho nó một cái tên. Đến Campuchia, con sông chia ra làm 2 nhánh lớn với nhánh bên phải là sông Bassac, người Campuchia gọi nhanh là basa. Kiến thức này nằm trong một quyển sách của chuyên gia người Mỹ và tôi cho rằng nó chính xác. Do đó, tôi định danh trong đầu thương hiệu “Mekong basa”.
Kế đến, tôi nhờ người ở Việt Nam gửi máy bay 2 con cá basa sang Mỹ để đăng ký với Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) xây dựng thương hiệu độc quyền. Sau khi có những kết quả chính xác từ các nhà khoa học, họ đã đồng ý cho chúng tôi sử dụng thương hiệu “Mekong Basa”.
Đồng thời, chúng tôi mời một số đối tác từ Việt Nam sang Mỹ tham quan, tìm hiểu tại các nhà máy chế biến cá để xem các công đoạn, cách thức người Mỹ sản xuất như thế nào, rồi đầu tư máy móc, trang thiết bị cho các nhà máy ở Việt Nam. Giai đoạn 1999 - 2002, nước Mỹ bắt đầu đặt ra loạt các biện pháp ngăn chặn sự xâm nhập của cá basa, trong bối cảnh sản lượng cá nhập vào quốc gia này tăng lên nhanh chóng. Đỉnh điểm là việc Mỹ khởi kiện chống bán phá giá cá basa vào tháng 6.2002. Nhưng ít ai biết rằng, nhờ vụ việc này, cá basa Việt Nam trở nên nổi tiếng trên khắp toàn cầu.
Đến bây giờ, ông còn trăn trở gì về con cá basa, cá tra không? Triển vọng của cá basa, cá tra ở thị trường nội địa thế nào?
- Chúng tôi đánh giá hiện nay kỹ thuật nuôi cá tra đã có nhiều tiến bộ. Thế nhưng có một thực tế là giá trị con cá tra lại đang đi xuống, đó là do cách làm chưa thật sự hiệu quả và chúng ta phải tính toán lại.
Thứ nhất, cá tra bao nhiêu năm qua vẫn xuất khẩu dạng phi lê, do đó chúng ta cần nghiên cứu một hình thức mới để tiếp cận khách hàng. Thứ hai, chúng ta cần tập cho người trẻ ăn và thưởng thức cá basa, cá tra của Việt Nam để các em biết trân trọng. Mặt khác, đây cũng là cách tiếp cận đối tượng khách hàng mới. Quan trọng hơn hết là chúng ta phải biết cân bằng vấn đề cung - cầu, chẳng hạn, hiện tại nước Mỹ cần khoảng 300.000 tấn cá tra nhưng bán đến 500.000 tấn là dư.
Ở miền Tây hiện có 6 tỉnh, thành nuôi cá tra là An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ và một phần tỉnh Sóc Trăng. Quan điểm của tôi, trong câu chuyện kinh doanh phải có chiến lược, quy hoạch như: Mỗi tỉnh diện tích nuôi là bao nhiêu; những vùng nuôi cũng phải có kế hoạch nuôi tương đối theo số lượng nhất định. Do đó, các địa phương phải cùng ngồi với nhau bàn bạc lại.
Cũng không chỉ có ở Mỹ mà chúng ta cũng có thể đẩy mạnh thị trường mới ở khu vực châu Á, một số thị trường tiềm năng có thể xem xét như: Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Bangladesh…
Xin cảm ơn ông!