Thúc đẩy tín dụng xanh hỗ trợ tăng trưởng và phát triển bền vững

Nhóm PV |

Tại hội thảo "Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero” do báo Lao Động phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước tổ chức ngày 9.9, các chuyên gia sẽ đưa ra những kiến nghị, đóng góp thiết thực giúp các tổ chức tín dụng có giải pháp và tận dụng các cơ hội trong việc thúc đẩy tín dụng xanh, ngân hàng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam.

Phát biểu bế mạc hội thảo, ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng nhà nước khẳng định các bài trình bày, nội dung trao đổi, thảo luận đã bám sát mục tiêu của Hội thảo, khẳng định và làm rõ hơn vai trò của tín dụng xanh, góp phần quan trọng vào tăng trưởng xanh và phát triển bền vững tại Việt Nam.

“Đề nghị phía bưu cục ngân hàng nhà nước, ngân hàng thuơng mại khai thác ý kiến tham luận đặc biệt là nhưng khuyến cáo, đề xuất quan trọng, thiết thực. Có thể thấy vấn đề về tín dụng xanh là một trong những nội dung rất thời sự, không phải là lúc đủng đỉnh để tìm hiểu, nghiên cứu, triển khai chậm chạp." ông Đào Minh Tú nói.

Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng nhà nước cho rằng trong xu thế của xã hội, đặc biệt với Việt Nam cần thực hiện những yêu cầu đặt ra trong vấn đề môi trường, khẩn trương đạt được chỉ tiêu trong môi trường. Bản thân các doanh nghiệp và tất cả các lĩnh vực đều phải coi đây là một cơ hội và yêu cầu bức thiết phải triển khai. Phía ngành ngân hàng cũng nhận thức đây là lĩnh vực cấp bách cần phải triển khai.

Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước - ông Đào Minh Tú phát biểu tại hội thảo.
Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước - ông Đào Minh Tú phát biểu bế mạc hội thảo.

Vừa qua, về phía chính phủ, các cơ quan chính phủ cũng đã khẩn trương ban hành rất nhiều vấn đề để hoàn thiện môi trường mang tính chất pháp lý chung để bộ ngành, địa phương, ngành nghề triển khai nhằm tiến tới mục tiêu Net Zero năm 2050. Ví dụ Quốc hội ban hành Luật bảo vệ môi trường năm 2020, Chính phủ ban hành nhiều nghị định hướng dẫn chi tiết những điều của Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng Ozon, đặc biệt nghị định về danh mục phân loại xanh, tín dụng xanh, trái phiếu xanh,…

Mặc dù có nhiều nội dung, khái niệm mới nhưng cũng đã triển khai tích cực. Từ những cơ sở trên, Chính phủ, Quốc hội, Ngân hàng nhà nước đã xây dựng nội dung: kế hoạch hành động, ban hành một số các văn bản để tạo khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức tín dụng trong ngân hàng để hướng tới nền kinh tế xanh.

Tín dụng xanh đạt được kết quả nhưng vẫn còn một số hạn chế: tổng dư nợ tín dụng xanh hiện nay mới đạt 528 nghìn tỉ, chiếm 5% trong tổng dư nợ nền kinh tế. Tốc độ tăng dư nợ bình quân đạt tích cực khoảng 26%/năm với tín dụng xanh, nhưng đến năm 2050 đòi hỏi tiến tới Net Zero, vốn và nguồn đầu tư thông qua kênh tín dụng là nguồn lực chính, do đó tốc độ này chưa hẳn đáp ứng được yêu cầu chính đặt ra. Bên cạnh đó, hiện nay có 43 các tổ chức tín dụng, hàng trăm tín dụng lớn nhỏ, tư nhân, nước ngoài chưa phải nhiều khi tham gia.

Nhìn chung, các ngân hàng thương mại đã ý thức được quyền lợi, trách nhiệm của chính mình trong nâng cao chất lượng quản lý tín dụng của mình. Định hướng và có những giải pháp xây dựng nguồn lực đầu tư. Vì vốn ngân hàng huy động ngắn hạn nhưng cho vay đầu tư dự án xanh, dự án về môi trường thường có thời gian dài.

Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng nhà nước đánh giá Báo Lao Động là một trong những tờ báo đi sâu vào vấn đề thời sự, đặc biệt như vấn đề về tín dụng xanh. Hội nghị đem lại kiến thức cho tất cả mọi người quan tâm đến tín dụng xanh, phát triển bền vững. Thông qua truyền thông, phát trực tiếp trên nhiều kênh và các bài viết sẽ lan toả đến nhiều người hiểu biết về tín dụng xanh. Đồng thời, cần được áp dụng tích cực công nghệ chuyển đổi số. Bởi lẽ càng ứng dụng bao nhiêu càng giảm thiểu phát thải khí nhà kính bấy nhiêu.

Ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng nhà nước cho biết cần thực hiện tốt những giải pháp tiến tới mục tiêu dài hạn. Cụ thể, hiện nay số lượng các TCTD tham gia hoạt động cấp tín dụng xanh năm 2023 43 TCTD. Mục tiêu, năm 2025 có 100% TCTD tham gia hoạt động cấp tín dụng xanh. Trong đó, các ngân hàng phải có hướng dẫn, quy định nội bộ thực hiện đánh giá rủi ro môi trường xã hội theo quy định. Thực tế, đến ngày 31.6 các ngân hàng đã phải hoàn thành nhưng đối với nhiều ngân hàng đây vẫn là vấn đề mới. Tăng trưởng tín dụng xanh hiện nay chưa cao nên mục tiêu cuối năm 2025 tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh đạt 25%; đạt 30-35% vào cuối năm 2023. Tương ứng tỉ lệ trên là mục tiêu tỉ trọng tín dụng xanh trong nền kinh tế từ 4,6% tăng lên 10% vào cuối 2025.

11h10:

Những điều ngân hàng cần thay đổi để hướng tới Net Zero

Ông Nguyễn Chí Hiếu - Giám đốc khối Tư vấn Môi trường Xã hội và Quản trị (ESG) tại KPMG Việt Nam và Campuchia - dẫn chứng tại COP26, Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết quan trọng.

Ông Nguyễn Chí Hiếu - Giám đốc khối Tư vấn Môi trường Xã hội và Quản trị (ESG) tại KPMG Việt Nam và Campuchia.
Ông Nguyễn Chí Hiếu - Giám đốc khối Tư vấn Môi trường Xã hội và Quản trị (ESG) tại KPMG Việt Nam và Campuchia.

Đầu tiên là bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030 Việt Nam sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường và tăng đóng góp lên tới 27% khi có hỗ trợ quốc tế thông qua hợp tác song phương, đa phương và thực hiện các cơ chế mới theo Thỏa thuận Paris. Tiếp đó, đến năm 2040 sẽ loại bỏ dần sản xuất điện bằng nhiên liệu than. Và cuối cùng là đến năm 2050 sẽ đưa mức phát thải ròng về 0.

6 ngành sẽ được đầu tư về tài chính theo KMPG đánh giá gồm năng lượng tái tạo, công trình xanh, phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, nông nghiệp - chuỗi cung ứng thực phẩm, công nghiệp nặng và chuỗi cung ứng.

Để đạt những tiêu chí đó, chúng ta cần 368 tỉ USD từ nay đến năm 2040. Ngoài ra, cũng cần sự hỗ trợ từ phía những bộ ban ngành, trong đó có NHNN mà gần đây nhất là Thông tư 17.

Theo ông Hiếu, nhiều cơ hội sẽ mở ra với các ngân hàng khi tham gia thị trường vốn xanh như có cơ hội tăng cường tính mạnh bạch và tính giải trình; phát triển những sản phẩm mới và dịch vụ đa dạng hơn; tăng lợi thế cạnh tranh và sự khác biệt so với các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, công bố rõ ràng khung thông tin về tài chính còn giúp ngân hàng tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Và sau tất cả chính là đóng góp cho mục tiêu phát triển xanh của toàn cầu cũng như của Chính phủ Việt Nam.

Bên cạnh đó, riêng với các ngân hàng thương mại, đại diện KPMG chỉ ra 5 khó khăn chính cần vượt qua. Một là chất lượng đội ngũ cán bộ trong công tác thẩm định. Ông dẫn lại câu chuyện một ngân hàng từng thắc mắc với mình rằng không biết cách thẩm định một toà nhà xanh như nào, khác gì so với các dự án về môi trường khác như nông - lâm nghiệp.

Hai là quy trình nội bộ của ngân hàng khi phân loại và xây dựng khung. Ba là tích hợp các vấn đề rủi ro của ESG vào khung rủi ro chung của ngân hàng. Thay vào đó cần tách biệt từng hạng mục và các khoản đầu tư khác nhau. Bốn là vấn đề “tẩy xanh”. Một số dự án khai khống giá trị xanh hoá sẽ gây thiệt hại cho các ngân hàng. Năm là hệ thống dữ liệu về môi trường xã hội chưa đồng nhất. Nhiều dữ liệu nằm rải rác khắp nơi và không biết tập trung như nào để làm báo cáo phát triển bền vững.

Một số khuyến nghị ông Nguyễn Chí Hiếu đưa ra với khối các ngân hàng gồm: Một, ngân hàng cần có chính sách và chiến lược về tín dụng xanh riêng biệt. Hai, xây dựng đa dạng sản phẩm tín dụng xanh. Ba, tích hợp các rủi ro môi trường vào khung quản trị rủi ro. Bốn, xây dựng hệ thống dữ liệu môi trường xã hội đồng bộ để công bố thông tin minh bạch. Năm, nâng cao năng lực cho nhân viên. Sáu, thiết lập đơn vị thẩm định đánh giá yếu tố ESG. Bảy, chủ động tiếp cận các nguồn tài chính xanh. Tám, thực hiện các mô hình chịu đựng các rủi ro khí hậu (nếu cần thiết).

10h50:

Bà Trần Thị Thúy Ngọc – Phó Tổng Giám đốc thường trực, lãnh đạo Phụ trách dịch vụ Phát triển bền vững và Biến đổi Khí hậu, Deloitte Việt Nam cho biết là đơn vị dẫn đầu trong ngành tư vấn tài chính kiểm toán hàng đầu thế giới Deloitte đóng góp trong công tác liên quan đến xây dựng chính sách cho các tổ chức quốc tế.

Theo bà Trần Thị Thúy Ngọc, phát triển bền vững là một quá trình với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa của 3 yếu tố: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là một trong những mục tiêu mà hầu hết các quốc gia trên thế giới hướng đến.

Tính trong giai đoạn 2021 – 2070, biến đổi khí hậu không chỉ khiến nhiệt độ trái đất tăng 3 độ C, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của con người mà còn làm suy yếu nền kinh tế thế giới nói chung. Theo nghiên cứu của Deloitte tại châu Á – Thái Bình Dương, các hệ quả lên nền kinh tế, tài chính khi không hành động vì biến đổi khí hậu có thể kể đến như: mất đất sản xuất, đình trệ năng suất và đầu tư, giảm sức khỏe và phúc lợi, gián đoạn dòng tiền toàn cầu... cùng với đó là tổn thất lên đến 96 tỉ USD.

Tuy nhiên, nếu chúng ta thực hiện nền kinh tế không carbon sẽ đem lại nhiều lợi ích kinh tế đáng kể cho những khu vực mà Việt Nam hiện đang là thành viên. Deloitte ước tính con số đó là 47 tỉ USD nếu các quốc gia, doanh nghiệp bắt đầu hành trình hành động vì khí hậu, hướng đến tương lai giảm phát thải cho đến năm 2070. Nếu tính trên toàn cầu, con số này sẽ tăng lên rất nhiều.

Bà Trần Thị Thúy Ngọc – Phó Tổng Giám đốc thường trực, lãnh đạo Phụ trách dịch vụ Phát triển bền vững và Biến đổi Khí hậu, Deloitte Việt Nam phát biểu tại hội thảo. Ảnh Tuấn Anh
Bà Trần Thị Thúy Ngọc – Phó Tổng Giám đốc thường trực, lãnh đạo Phụ trách dịch vụ Phát triển bền vững và Biến đổi Khí hậu, Deloitte Việt Nam phát biểu tại hội thảo. Ảnh Tuấn Anh

Xét trên bình diện thế giới, nền tài chính xanh, tài chính bền vững đang được phát triển một cách tích cực. Theo Ngân hàng Trung ương Đức, nhu cầu và sự quan tâm đối với các khoản đầu tư "xanh" đang làm gia tăng nhanh chóng thị trường trái phiếu xã hội và trái phiếu xanh toàn cầu. Xu hướng này đặc biệt phát triển mạnh ở khu vực đồng Euro, nơi ngày càng có nhiều ngân hàng kết hợp các trái phiếu này vào danh mục đầu tư của họ.

Ước tính nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu ở các nước đang phát triển ở châu Á cho thấy năng lượng chiếm 56%; vận chuyển chiếm 39%; viễn thông 8,7%; nước và vệ sinh chiếm khoảng 3,1%. Tương đương khí phát thải nhà kính ở Việt Nam, năng lượng chiếm 59%; nông nghiệp 19%.

Các ngân hàng tại Việt Nam cần hỗ trợ để thúc đẩy tài chính xanh. Nguồn tài chính của nền kinh tế Việt Nam cần đạt được các mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu. Dẫu là mục tiêu cuối cùng của mọi nền kinh tế trên thế giới, hành trình chuyển đổi sang Zet Zero đòi hỏi số tiền đầu tư lớn nhằm chuyển đổi cơ sở hạ tầng, công nghệ hiện đại. Khu vực Đông Nam Á ước tính cần đầu tư 5,7% GDP với tỷ lệ trung bình hàng năm lên đến 12% nhằm đáp ứng tổng nhu cầu đầu tư (giai đoạn 2016 – 2030). Theo ước tính, Việt Nam sẽ cần khoảng 368-380 tỉ USD hay 6,8% GDP mỗi năm cho đến năm 2040 để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu. Đây là con số đòi hỏi rất nhiều thời gian cùng sự nỗ lực, chung tay của các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng, trong bối cảnh ngành ngân hàng Việt Nam chỉ chiếm 4,3% tổng dư nợ vào cuối năm 2022, tăng 12,9% so với năm 2021, tương đương khoảng 500 nghìn tỉ đồng (21,2 tỉ USD).

Xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển tín dụng xanh được coi là chìa khóa để mở ra một nền tài chính xanh vững mạnh tại Việt Nam. Tín dụng xanh không những đảm bảo đồng thời những lợi ích đầu tư, lợi ích môi trường từ phía bên cho vay; nâng cao quản lý bền vững, xây dựng niềm tin với công chúng cho bên vay; mà còn góp phần bảo tồn môi trường toàn cầu, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội thông qua việc thúc đẩy các dự án xanh. Khi đặt lợi ích của môi trường xã hội lên hàng đầu thì lợi ích của bên vay, bên cho vay được đảm bảo.

Xu hướng ESG trong ngành ngân hàng năm 2023 bao gồm xu hướng đầu tư, xu hướng pháp lý. Tăng cường cấp vốn cho các dự án thích ứng và phục hồi bao gồm các khoản trợ cấp, khoản vay có điều kiện, công cụ vốn chủ sở hữu và trái phiếu đặc biệt. Ngoài ra, gia tăng trái phiếu bền vững. Theo dự báo tổng trái phiếu toàn cầu năm 2022 tăng từ 850 tỉ USD lên 900 – 1000 tỉ USD vào năm 2023. Ngoài ra các nhà đầu tư trú trọng vào các chiến lược khí hậu và chuyển đổi tạm thời sang thị trường carbon tự nguyện.

Đối với pháp lý, có 4 xu hướng: quy định kiểm tra sức chịu đựng liên quan đến khí hậu; giảm mối lo ngại báo cáo khống; quỹ ESG dưới sự giám sát của cơ quan quản lí; yêu cầu báo cáo về các chỉ số tác động bất lợi chính.

Áp lực chính liên quan đến biến đổi khí hậu và phát triển bền vững là chi phí tài chính lớn; kỳ vọng của Chính phủ cao; kỳ vọng của nhà đầu tư; nhu cầu của người tiêu dùng; kỳ vọng của nhà đầu tư; kỳ vọng của nhân viên…

Đứng trước những rủi ro về biến đổi khí hậu, các bên liên quan trong chuỗi giá trị kinh doanh đã có cách nhìn khác về vị trí và vai trò của mình nhằm vừa đảm bảo lợi ích tài chính, vừa gìn giữ môi trường sống. Sự thành công của doanh nghiệp đã được tái định nghĩa theo hướng không chỉ tối đa hóa lợi nhuận cho các chủ sở hữu/cổ đông mà còn giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường và tối đa hóa lợi ích cho xã hội. Giờ đây, doanh nghiệp đã nhận thức được rằng những tác động của mình tới môi trường sẽ tỷ lệ thuận và tương đồng với những gì thiên nhiên ban tặng lại cho doanh nghiệp. Tác động này sẽ chi phối từ các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đến các bên liên quan khác như nhà cung cấp, khách hàng, người lao động, xã hội.

Có thể thấy, áp lực ngày càng tăng từ nhiều bên liên quan tạo ra nhu cầu chuyển đổi bền vững trong các tổ chức tài chính. Nhu cầu của thị trường (đến từ đối thủ, những áp lực cạnh tranh), hay nhu cầu và hành vi khách hàng, yêu cầu của cơ quan quản lý (hành vi chính trị và quy định) là sức ép để tạo ra nhu cầu chuyển đổi bền vững trong các tổ chức tài chính. Từ đây, mỗi doanh nghiệp nhận biết các lựa chọn, giải pháp công nghệ hiện hữu và phù hợp nhằm giảm thiểu phát thải ròng, hướng tới mục tiêu Net Zero.

Các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, đóng vai trò chính trong việc tài trợ cho phát triển bền vững và chống biến đổi khí hậu, thông qua các sản phẩm và dịch vụ cho các ngành hàng và tăng cường khả năng tiếp cận tài chính chuyển đổi của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phát huy tối đa năng lực của các tổ chức tài chính, cần có những yêu cầu cụ thể và hợp lý nhằm gắn các quyết định tài chính với tính bền vững.

Một trong số đó là khung tài chính bền vững, một khái niệm mới được đưa ra với mục tiêu hướng dẫn sử dụng các yếu tố ESG trong hoạt động tài trợ, tái cấp vốn, đầu tư. Khung tài chính bền vững thường tuân theo các tiêu chuẩn toàn cầu như Nguyên tắc Trái phiếu xanh hoặc Trái phiếu xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp tín dụng liên quan đến ESG. Mục tiêu cốt lõi mà Khung tài chính bền vững hướng tới là cải thiện thực hành quản lý rủi ro, tăng khả năng tiếp cận vốn, nâng cao danh tiếng và uy tín.

Ngoài ra, các sáng kiến như Ngân hàng có trách nhiệm, Ngân hàng và Tài chính bền vững (UNEP), Nguyên tắc đầu tư có trách nhiệm (PRI), Nguyên tắc trái phiếu xanh (ICMA)... là ví dụ minh họa cho nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm xanh hóa thị trường tài chính hiện nay.

Việt Nam hiện đang ở con số khiêm tốn trong đánh giá tích hợp hiệu suất ESG của các ngân hàng khu vực châu Á – Thái Bình Dương vì có thể đã thực hiện nhưng không báo cáo; đã làm nhưng không có hệ thống nên không thể báo cáo hoặc vì một số nguyên nhân khác không trình bày. Qua đánh giá các sản phẩm tại ngân hàng Việt Nam cho thấy có các sản phẩm cung cấp cho mục đích nhất định nhưng phần khác gần như không có. Những phần này có thể học hỏi các ngân hàng quốc tế để thực hiện.

Theo bà Trần Thị Thúy Ngọc, Deloitte đề xuất một số khuyến nghị cho các ngân hàng thương mại và ngân hàng nhà nước. Trước những sáng kiến, chương trình được thúc đẩy bởi các quốc gia, tổ chức trên thế giới về tài chính xanh, Việt Nam có thể bắt đầu xây dựng các nguyên tắc để quản lý và giám sát hiệu quả rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu, tăng cường yêu cầu công bố thông tin quản lý rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu của các ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý có thể xây dựng chính sách tiền tệ hướng đến nền kinh tế xanh nhằm giám sát và giảm thiểu rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu của các ngân hàng.

Thực hiện phân tích kịch bản và các bài kiểm tra sức chịu rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, tăng cường hợp tác quốc tế trong việc ứng phó đối với rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu sẽ là những nhiệm vụ quan trọng. Ngoài ra, việc truyền thông nâng cao nhận thức về rủi ro tài chính liên quan đến khí hậu cũng là một cấu phần không thể thiếu nhằm thúc đẩy hiệu quả áp dụng tài chính xanh tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều khuyến nghị cho các ngân hàng thương mại nhằm thực hiện cam kết Net Zero và các biện pháp tăng cường thực hành phát triển bền vững, bao gồm việc các ngân hàng còn lại nên cam kết đạt mức phát thải ròng và phát triển các mục tiêu dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với các kịch bản 1,5°C, giảm lượng carbon trong danh mục đầu tư của họ vào năm 2050 cùng với các kế hoạch chuyển đổi đáng tin cậy.

Cùng với đó, xác định các nguyên tắc loại trừ đối với các lĩnh vực mà ngân hàng sẽ không hỗ trợ để giảm thiểu tất cả các rủi ro liên quan đến khí hậu và thiên nhiên (ví dụ: các dự án trong khu vực đa dạng sinh học quan trọng hoặc di sản thế giới, các hoạt động ảnh hưởng đến các loài có nguy cơ tuyệt chủng, tài trợ cho các nhà máy nhiệt điện than mới) cũng như xây dựng chính sách ngành chi tiết cho các lĩnh vực nhạy cảm theo các thông lệ quốc tế tốt nhất (ví dụ: các cam kết không phá rừng, không than bùn và không khai thác (NDPE) và tuân thủ yêu cầu của từng ngành đặc thù.

Cuối cùng, không thể thiếu việc thiết lập, hoàn thiện các quy trình quản trị rủi ro để đánh giá rủi ro E&S cho tất cả khách hàng (không chỉ với các khách hàng lớn hoặc khách hàng trong các lĩnh vực nhạy cảm), đưa rủi ro E&S vào phân loại rủi ro khách hàng (không chỉ tập trung vào loại trừ), phát triển các quy trình giám sát và xem xét khách hàng định kỳ về rủi ro môi trường và xã hội và tham gia với khách hàng về các kế hoạch hành động trong trường hợp họ không tuân thủ đầy đủ các chính sách của ngân hàng. Nâng cao năng lực đánh giá rủi ro danh mục đầu tư, bao gồm xây dựng cơ sở dữ liệu phát thải được tài trợ cũng như phát triển các công cụ đánh giá rủi ro vật chất và rủi ro chuyển đổi của danh mục đầu tư của họ.

10h38:

Tiêu chí xác định dự án xanh cần phù hợp với điều kiện trong nước và tiêu chuẩn quốc tế 

TS. Mai Thanh Dung - Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường – cho biết, trong khoảng 20 năm gần đây, thúc đẩy thị trường tài chính xanh đang trở thành một xu hướng nổi bật và được áp dụng rộng rãi và trở thành xu hướng phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế.

TS. Mai Thanh Dung - Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
TS. Mai Thanh Dung - Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Theo thống kê, có hơn 30 quốc gia trên thế giới đang triển khai tốt hoạt động tín dụng xanh và trái phiếu xanh. Các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… cũng rất quan tâm phát triển các nguồn tín dụng xanh để cho các dự án xanh vay vốn.

Trong thời gian tới, TS. Mai Thanh Dung cho rằng hoạt động này sẽ càng ngày càng được triển khai mạnh mẽ hơn để thực hiện mục tiêu Net Zero vào năm 2050 như đã cam kết. Gần đây nhất, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã tạo ra hành lang pháp lý để tiếp tục triển khai những quy định hướng dẫn cụ thể các hoạt động tài chính liên quan đến trái phiếu xanh, tài chính xanh. Theo Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định 08, Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao nghiệm vụ thực hiện dự thảo về tiêu chí môi trường và xác nhận các dự án được vay tín dụng xanh, trái phiếu xanh.

Vào cuối năm 2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có dự thảo gửi lên Chính phủ. Sau đó Thủ tướng đã yêu cầu Bộ Tài chính và NHNN đóng góp xây dựng. Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường đã được Bộ giao làm đầu mối thực hiện dự thảo đang nỗ lực khẩn trương phối hợp với các chuyên gia, cán bộ tại Bộ Tài chính và NHNN để thời gian tới có thể trình lên Thủ tướng.

“Đây là văn bản quan trọng để thúc đẩy tín dụng xanh, trái phiếu xanh của chúng ta. Nhờ đó, có thể thu hút lượng lớn nguồn vốn từ trong nước lẫn quốc tế” – ông Dung nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, ông Dung nhận thấy nhiều khó khăn khi đưa ra danh mục dự án có thể được vay tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh. Nếu làm được điều này là thực hiện mục tiêu kép là tiếp cận được những nguồn vốn lớn cũng như đạt được mục tiêu bảo vệ môi trường.

"Chúng ta cần tiếp cận dự thảo phù hợp với những quy định quốc tế thì mới tiếp cận được nguồn vốn trên toàn cầu. Đồng thời cũng cần phù hợp với điều kiện và thể chế trong nước. Hiện chúng tôi đang dự thảo theo hướng đưa ra danh mục chưa quá cầu toàn. Trong đó lựa chọn những đối tượng, dự án rất xanh, rất ít rủi ro cho môi trường khi triển khai thực hiện để giảm rủi ro cho ngân hàng khi cho vay.

Điều quan trọng là không phát sinh thêm thủ tục hành chính, nên có thể giao cho xã hội hoá và các tổ chức bên ngoài. Đó là điều chúng tôi rất trăn trở bởi khi Thủ tướng ký vào quyết định, mọi thứ đều nên trong tầm kiểm soát. Hoàn thiện dự thảo sẽ theo hướng mở cho doanh nghiệp nhưng vẫn có thể giảm thiểu rủi ro trong tương lai. Sắp tới chúng tôi rất mong Bộ Tài chính, ngân hàng, tổ chức tín dụng, tổ chức tư vấn sẽ cùng nhau xây dựng dự thảo hoàn thiện nhất để trình lên Thủ tướng Chính phủ” – ông Dung nói.

10h05:

Thị trường carbon tại Việt Nam - Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng, phát triển

ThS. Hồ Thị Hằng – Phó Vụ trưởng, Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính khẳng định biến đổi khí hậu đang là vấn đề thách thức đối với toàn nhân loại bởi tác động ngày càng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, môi trường. Do đó, giảm phát thải khí nhà kính nhằm ứng phó với viến đổi khí hậu cũng nhận được sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các cam kết và sáng kiến khí hậu được đưa ra và thực hiện giúp các quốc gia nỗ lực đạt được các mục tiêu về biến đổi khí hậu. Đây không còn là trách nhiệm riêng của các quốc gia đang phát triển mà còn là trách nhiệm của tất cả các quốc gia trên thế giới.

Để đạt các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, các quốc gia ưu tiên sử dụng các công cụ thị trường, với hai công cụ định giá carbon chủ yếu là thuế carbon và hệ thống mua bán quyền phát thải (hay còn gọi là thị trường carbon). Đến năm 2023 trên thế giới có 27 quốc gia và 10 địa phương áp dụng thuế carbon, trong khi có 36 quốc gia và vùng lãnh thổ phát triển thị trường carbon.

Việc lựa chọn áp dụng thuế carbon hay phát triển trị trường carbon phụ thuộc vào điều kiện, bối cảnh kinh tế - xã hội và ưu tiên của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Nếu như thuế carbon cho phép các doanh nghiệp biết được chi phí cụ thể cho việc phát thải khí nhà kính nhưng ở quy mô quốc gia lại không chắc chắn về mức giảm phát thải đạt được. Còn với công cụ thị trường carbon, nhà nước không quy định mức giá cụ thể cho việc phát thải khí nhà kính mà để thị trường quyết định giá phát thải khí nhà kính, trong khi có thể bảo đảm được mức giảm phát thải theo thời gian ở quy mô quốc gia.

ThS. Hồ Thị Hằng – Phó Vụ trưởng, Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính phát biểu tại hội thảo.
ThS. Hồ Thị Hằng – Phó Vụ trưởng, Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính phát biểu tại hội thảo.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu thiệt hại nặng nề do tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó đặt trọng tâm vào giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03.6.2013 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là: “Thúc đẩy các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện nước ta trên cơ sở hỗ trợ tài chính và công nghệ của các nước và tổ chức quốc tế. Phát triển thị trường trao đổi tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị trường toàn cầu”.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII năm 2021 đề ra những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cho Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là: “Chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, carbon thấp.”

Theo bà Hằng, với quốc tế, Việt Nam không ngừng nỗ lực hướng tới mục tiêu chung của thế giới về giảm phát thải khí nhà kính cũng như đưa ra các cam kết riêng về cắt giảm khí nhà kính quốc gia. Năm 2015 Việt Nam đã tham gia Thoả thuận Paris và đệ trình Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và cập nhật năm 2020 và 2022.

Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (CO26), Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050 và loại bỏ dần sử dụng than vào năm 2040, đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Ngoài ra, tuyên bố của Việt Nam tại COP26 cũng đưa ra cam kết về giảm phát thải khí metal 30% vào năm 2030 cũng như tham gia tuyên bố Glasgow của các Lãnh đạo về rừng.

Năm 2022, Việt Nam đã đệ trình NDC cập nhật, trong đó đã nâng lên mục tiêu đến năm 2030 giảm phát thải khí nhà kính 15,8% bằng nguồn lực trong nước và giảm 43,5% với sự hỗ trợ từ nguồn lực quốc tế.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được Quốc hội ban hành ngày 17.11.2020 (có hiệu lực từ 01.01.2022 để thay thế cho Luật Bảo vệ môi trường năm 2014), trong đó quy định tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước là một trong những nội dung giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Tại Điều 139 về tổ chức và phát triển thị trường carbon quy định: thị trường carbon trong nước gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon thu được từ cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Giao Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, cơ quan ngang Bộ liên quan thành lập thị trường carbon trong nước.

Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 07.01.2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon, trong đó dành chương II quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước.

Theo đó, đã quy định cụ thể về: Đối tượng là các cơ sở thuộc Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cũng như đối tượng khác tham gia thị trường carbon trong nước. Ngày 18.01.2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ban hành danh mục, lĩnh vực cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, bao gồm các cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính lớn thuộc các lĩnh vực: năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải, quá trình công nghiệp (sản xuất hoá chất, luyện kim, công nghiệp điện tử), nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất, chất thải.

Mục tiêu, lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; việc đo đạc, báo cáo thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, kiểm kê khí nhà kính.

Việc trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon trong nước thực hiện trên sàn giao dịch tín chỉ carbon tại Việt Nam.

Nghị định 06/2022/NĐ-CP cũng quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các bộ ngành trong việc xây dựng và phát triển thị trường carbon trong nước, trong đó giao: Bộ Tài chính chủ trì xây dựng, thành lập sàn giao dịch tín chỉ carbon và ban hành cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động của thị trường carbon; Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan tổ chức vận hành thí điểm và bận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon phục vụ quản lý và theo dõi, giám sát thị trường carbon; quy định các hoạt động kết nối sàn giao dịch tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới; quy định thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon.

ThS. Hồ Thị Hằng cho biết lộ trình phát triển thị trường carbon tại Việt Nam được Chính phủ chia làm 2 giai đoạn: “Giai đoạn đến hết năm 2027: xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon. Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025. Giai đoạn từ năm 2028: tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028. Quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới”.

Theo ThS. Hồ Thị Hằng, hàng hóa trên thị trường carbon tại Việt Nam được xác định gồm 2 loại: Hạn ngạch phát thải khí nhà kính do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức phân bổ hoặc kết hợp phân bổ và đấu giá trong từng giai đoạn và hàng năm cho các cơ sở thuộc danh mục phải kiểm kê khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Tín chỉ carbon do Bộ Tài nguyên và Môi trường xác nhận được giao dịch trên dàn giao dịch tín chỉ các-bon, bao gồm: Tín chỉ carbon được tạo ra từ các chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước; và tín chỉ carbon được tạo ra từ các chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường carbon gồm cơ sở thuộc danh mục phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính; Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát, trình cấp có thẩm quyền ban hành tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính và chủ trì, phối hợp với các bộ quản lý lĩnh vực liên quan tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải nhà kính cho các cơ sở.

Các doanh nghiệp thuộc danh mục phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (theo Quyết định 01/2022/QĐ-TTg), gồm các doanh nghiệp phát thải lớn thuộc các lĩnh vực: năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải, quá trình công nghiệp (sản xuất hoá chất, luyện kim, công nghiệp điện tử), nông nghệp, lâm nghiệp, sử dụng đất, chất thải.

Tổ chức và cá nhân tham gia thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước, quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (các tín chỉ này cần được Bộ Tài nguyên và Môi trường xác nhận đủ điều kiện giao dịch).

Tổ chức và cá nhân đủ điều kiện tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh tín chỉ carbon theo quy định của pháp luật. Điều kiện đối với chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường carbon do Bộ Tài nguyên và Môi trường thông báo cấp có thẩm quyền quyết định.

Chủ thể tham gia hỗ trợ hoạt động của thị trường carbon tham gia vào thị trường carbon tại Việt Nam còn có các tổ chức hỗ trợ giao dịch: đơn vị thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; tùy thuộc dự kiến quy mô của thị trường có thể bao gồm các tổ chức làm nhiệm vụ hỗ trợ khác. Việc tham gia của các chủ thể triên thị trường carbon trong nước trên nguyên tắc tự nguyện.

ThS. Hồ Thị Hằng cho biết việc trao đổi, mua bán hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon được thực hiện theo phương thức giao dịch tập trung thông qua sàn giao dịch tín chỉ carbon. Để giao dịch trên sàn, hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon khi được Bộ Tài nguyên và Môi trường xác nhận được xác nhận giao dịch trên sàn sẽ được cấp mã số trong nước để phục vụ cho việc giao dịch, mã số được cấp là duy nhất và không trùng lắp.

“Chủ thể khi tham gia giao dịch trên thị trường carbon tại Việt Nam phải có tài khoản lưu ký giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính hoặc tài khoản lưu ký giao dịch tín chỉ carbon. Hoạt động cấp mã số hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon được thực hiện tập trung để đảm bảo dữ liệu được thống nhất, đồng bộ và bảo đảm yêu cầu quản lý, giám sát.

Hoạt động thanh toán giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon đảm bảo nguyên tắc chuyển giao hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon đồng thời với thanh toán tiền. Phương thức thanh toán giao dịch được xác định phù hợp với phương thức giao dịch áp dụng trong từng giai đoạn” – bà Hằng cho hay.

Theo ThS. Hồ Thị Hằng để triển khai thị trường carbon, có 3 nhóm nhiệm vụ và giải pháp đặt ra gồm: Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý: xây dựng quy định về quản lý nhà nước đối với tín chỉ carbon; ban hành quy định về đấu giá, vay mượn, nộp trả và thu hồi hạn ngạch; xây dựng khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; xây dựng cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động của thị trường tín chỉ carbon; ban hành quy định về quy trình, kỹ thuật đo đạc, báo cáo thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Tổ chức và vận hành thị trường: tập trung vào các nhiệm vụ về tạo lập hàng hóa; kiện toàn tổ chức bộ máy, nhân lực, hạ tầng kỹ thuật; và việc quản lý, kiểm tra và giám sát hoạt động trên thị trường carbon.

Nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực: các nhiệm vụ cụ thể gồm tuyên truyền, nâng cao nhận thức; phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin, thực hiện kiểm kê khí nhà kính cũng như tham gia vào thị trường; phát triển hệ thống thông tin.

Cùng với việc tham gia thị trường carbon, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh có thêm các lựa chọn để thực hiện giảm phát thải của doanh nghiệp. Thông qua tính toán chi phí, lợi ích của từng phương án, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh có thể lựa chọn phương án áp dụng công nghệ ít phát thải hoặc thực hiện mua lại hạn ngạch phát thải khí nhà kính hoặc tín chỉ carbon để bù đắp cho lượng phát thải khí nhà kính của mình.

9h55:

Phát biểu tại hội nghị bà Nguyễn Thị Thu Hà - Trưởng Ban định chế tài chính Agribank cho biết thời gian qua Agribank rất quan tâm đến phát triển tín dụng xanh. Nhận thức được vai trò, Agribank tích hợp chiến lược phát triển xanh trong chiến lược phát triển của ngân hàng. Agribank có tới gần 70% dư nợ cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nên việc phát triển tín dụng xanh rất quan trọng.

Theo bà Nguyễn Thị Thu Hà, Agribank đang triển khai hiệu quả 7 chương trình tín dụng chính sách và cho vay theo 2 chương trình mục tiêu quốc gia trong nông nghiệp nông thôn. Trong đó, Agribank luôn ưu tiên cấp tín dụng cho các dự án xanh. Phát triển các dự án xanh là một trong những mắt xích quan trọng chuỗi liên kết phát triển bền vững và hỗ trợ giảm phát thải.

“Để thực hiện quá trình phát triển xanh, Agribank luôn luôn cải tiến các cơ chế, quy trình và có những phương án để tiếp cận với hệ thống tài chính xanh như: cho vay qua tổ vay vốn, cho vay bằng hình thức xe lưu động. Điểm giao dịch lưu động là một trong các sáng kiến mới của Agribank đã được NHNN phê duyệt để mang nguồn vốn tới vùng sâu vùng xa. Trong quá trình đó, Agribank từng bước xây dựng tiêu chuẩn ESG – tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị ngân hàng. Đây là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để thực hiện báo cáo quá trình phát triển bền vững. Theo Thông tư 96, Bộ Tài chính yêu cầu bắt buộc có báo cáo phát triển bền vững là một bộ phận trong báo cáo thường niên của TCTD.

Khoảng 20 tổ chức hiện nay đã có báo cáo phát triển bền vững tích hợp hoặc không tích hợp trong báo cáo thường niên và độc lập hoàn toàn. Trong thời gian tới, kiểm toán quốc tế kiểm toán báo cáo đó. Chính vì vậy, Agribank đã thành lập ban chỉ đạo ESG để nghiên cứu các tiêu chuẩn phát triển bền vững. Cần đào tạo các cán bộ, nhân viên trong tổ chức cũng như khách hàng của TCTD hiểu được tầm quan trọng của tín dụng xanh ESG. Từ đó các chủ trương, chiến lược về tín dụng xanh mới có thể đi vào cuộc sống” - bà Nguyễn Thị Thu Hà nói.

Bà Nguyễn Thị Thu Hà – Phó trưởng ban chỉ đạo thường trực ESG của Agribank phát biểu tại hội thảo.
Bà Nguyễn Thị Thu Hà – Phó trưởng ban chỉ đạo thường trực ESG của Agribank phát biểu tại hội thảo.


Trong quá trình đó việc hiện đại hoá công nghệ thông tin, giảm thiểu giấy tờ trong hoạt động tín dụng xanh rất quan trọng. Agribank thấy được cần triển khai hiện đại hoá công nghệ, thanh toán không dùng tiền mặt trên hệ thống app. Agribank là một trong những ngân hàng hàng đầu thực hiện các cam kết và dự án quốc tế. Nếu như không có tiêu chuẩn bền vững sẽ không nhận được nguồn vốn đầu tư quốc tế. Khi đã giải ngân phải có cam kết bảo vệ môi trường và xã hội.

Agribank đã tích cực tham gia nhiều Dự án có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường do Ngân hàng Thế giới (World Bank) và các tổ chức tài chính tài trợ như: Nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học; Dự án nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững; Quản lý rủi ro thiên tai; Hỗ trợ nông nghiệp carbon thấp; Cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng; Điện gió; đưa vốn tín dụng vào công cuộc chống hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung Tây Nguyên…

Giai đoạn 2018-2020, dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng nhanh chóng từ 100-350%/năm. Sau giai đoạn này, do ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô như đại dịch COVID-19, căng thẳng leo thang giữa Nga - Ukraina và các nước phương tây, suy thoái kinh tế của các nền kinh tế lớn trên thế giới ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam... tốc độ tăng trưởng dư nợ có sự suy giảm nhẹ, tuy nhiên vẫn khá ổn định về giá trị cho vay lẫn số lượng khách hàng.

Theo bà Nguyễn Thị Thu Hà trong 6 tháng đầu năm 2023, dư nợ của Agribank đã tăng trưởng bằng năm 2022. Đặc biệt, dư nợ lớn nhưng số lượng khách hàng đạt tiêu chuẩn tín dụng xanh của Agribank luôn chiếm cao nhất, khoảng 42.000 khách hàng. Đặc biệt, Agribank phát triển mạnh dư nợ tín dụng xanh trong lĩnh vực lâm nghiệp, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, nông nghiệp xanh.

Agribank có những chương trình quảng bá đối với khách hàng về tín dụng xanh. Agribank thường xuyên cải tiến quy trình, phương pháp cho vay để góp phần đưa dịch vụ tài chính, tín dụng đến với người dân tại địa bàn nông nghiệp nông thôn. Agribank đã trở thành “mắt xích” quan trọng trong chuỗi liên kết sản xuất nông nghiệp, góp phần tạo nên các sản phẩm nông nghiệp đạt chất lượng và có giá trị hàng hóa cao.

Agribank đã thực hiện tốt công tác truyền thông nội bộ và bên ngoài về chủ trương cung ứng nguồn vốn xanh, để nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn, thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng và sự an toàn của hàng nông sản Việt Nam, hướng đến phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, giữ được thị trường tiêu dùng trong nước và có vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, Agribank đã trở thành “mắt xích” quan trọng trong chuỗi liên kết sản xuất nông nghiệp, góp phần tạo nên các sản phẩm nông nghiệp đạt chất lượng và có giá trị hàng hóa cao.

 
Bà Nguyễn Thị Thu Hà – Phó trưởng ban chỉ đạo thường trực ESG của Agribank.

Theo bà Nguyễn Thị Thu Hà, Agribank đề ra chiến lược xây dựng tín dụng xanh phân tích về cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu. Điểm mạnh của Agribank là nhận được sự hỗ trợ của NHNN, Chính phủ. Nhờ đó, Agribank xếp hạng thứ 2 trong phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam. Lĩnh vực của Agribank hoạt động chủ yếu ở nông nghiệp. Bên cạnh đó, Agribank có những hạn chế cần thay đổi trong thời gian tới như số lượng nhân sự đông, trình độ chưa đồng đều. Chính vì vậy, cần chi phí đầu tư lớn trong chuyển đổi đầu tư xanh. Tuy nhiên, Agribank cũng có nhiều cơ hội khi nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng quốc tế phát triển tín dụng xanh. Từ đó, có thể học hỏi kinh nghiệm và phát triển.

Agribank xác định áp dụng bộ tiêu chuẩn ESG tại Agribank là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển ngân hàng giai đoạn 2023-2025. Theo đó, Agribank đã thành lập Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc nhằm xây dựng Đề án triển khai ESG toàn diện tại Agribank trong ngắn hạn và dài hạn. Cơ cấu của Ban chỉ đạo triển khai ESG bao gồm một Thành viên HĐTV là Trưởng Ban chỉ đạo. Việc thành lập Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc với thành phần nhân sự cấp cao cho thấy quyết tâm của Agribank trong việc triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả việc áp dụng ESG trong toàn hệ thống Agribank.

Bên cạnh đó, Agribank chú trọng việc hoàn thiện cơ chế, chính sách nội bộ nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Agribank đã ban hành văn bản về việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh, hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, sổ tay tín dụng của Agribank luôn gắn việc thẩm định dự án, phương án vay vốn với vấn đề đảm bảo môi sinh, môi trường, các dự án phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt của cấp thẩm quyền theo quy định của pháp luật, kiên quyết loại trừ cấp tín dụng đối với các dự án có khả năng ảnh hưởng lớn và nghiêm trọng đến môi trường, xã hội…

Trên cơ sở Chiến lược quốc gia của Việt Nam về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam, trong thời gian tới Agribank quyết tâm triển khai hiệu quả các giải pháp nhằm thúc đẩy tín dụng xanh, ngân hàng xanh, hỗ trợ phát triển bền vững.

Triển khai áp dụng ESG toàn diện và hiệu quả trong hệ thống Agribank, bao gồm: Xây dựng bộ chính sách ESG (Chính sách quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Khung tài chính xanh và khung tài chính xã hội, các chính sách ESG trong hoạt động vận hành của ngân hàng…). Xác định mục tiêu cụ thể và xây dựng lộ trình triển khai trong ngắn hạn và dài hạn nhằm tạo môi trường thuận lợi cho phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh và thu hút các nguồn vốn quốc tế xanh và bền vững; hoàn thiện mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị liên quan trong triển khai thực hiện ESG.

Ngoài ra, ưu tiên cung ứng vốn và dịch vụ tài chính phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Tiếp tục duy trì tỷ trọng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn từ 65-70% tổng dư nợ. Nghiên cứu và triển khai các sản phẩm tín dụng xanh, có chính sách ưu đãi, khuyến khích cho vay các dự án, phương án kinh doanh hiệu quả, thân thiện với môi trường… phù hợp với định hướng kinh doanh, phân khúc khách hàng, thị trường mục tiêu cũng như năng lực, thế mạnh của Agribank. Chủ động tìm kiếm, tiếp cận nguồn vốn quốc tế xanh thông qua các Bộ, ngành đầu mối hoặc các định chế tài chính, tổ chức phi chính phủ, Quỹ tín thác tín dụng xanh… để tăng cường nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án xanh. Chuẩn bị để phát hành trái phiếu xanh tăng vốn.

Đẩy mạnh phát triển các sản phẩm, dịch vụ tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ gia đình sản xuất kinh doanh. Tiếp tục phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài chính-ngân hàng hiện đại, tiện ích dựa trên ứng dụng công nghệ số, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, góp phần “xanh hóa” ngành Ngân hàng thông qua xây dựng thói quen thân thiện với môi trường cho khách hàng trong việc tiếp cận, sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.

Xây dựng và triển khai các biện pháp tổng thể để tăng cường năng lực cho cán bộ, nhân viên trong việc thực hiện tín dụng xanh; tổ chức đào tạo, tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân viên về hoạt động ngân hàng xanh - tín dụng xanh; nâng cao ý thức sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định về rủi ro môi trường xã hội của các dự án.

“Giải pháp, chính sách, chiến lược của Agribank có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế, chính sách của các Bộ ngành và Chính phủ cũng như các tổ chức tư vấn quốc tế” – bà Hà khẳng định.

9h50:

Ngân hàng thương mại khó khăn trong lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh

Ông Nguyễn Quốc Hưng - Giám đốc Ban Tài trợ dự án ngân hàng BIDV.
Ông Nguyễn Quốc Hưng - Giám đốc Ban Tài trợ dự án ngân hàng BIDV.

Theo ông Nguyễn Quốc Hưng - Giám đốc Ban Tài trợ dự án ngân hàng BIDV, nhận thức được tầm quan trọng của mục tiêu phát triển bền vững trong dài hạn nên BIDV đã sớm chú trọng vào các tài trợ cho các dự án xanh của nền kinh tế. Cùng với lộ trình và cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26, BIDV định hướng hoạt động kinh doanh và danh mục cho vay nhằm hướng tới mục tiêu trở thành Net-zero Bank (Ngân hàng phát thải ròng bằng 0).

Dư nợ tín dụng xanh trong giai đoạn 2019 - 2022 tăng trưởng bình quân 45%/năm. Đến thời điểm 30.6.2023, BIDV đang cấp tín dụng lĩnh vực xanh cho hàng nghìn dự án với dư nợ trên 66 nghìn tỉ đồng (tương đương khoảng gần 2,8 tỉ USD), tăng gần 4% so với đầu năm và chiếm tỉ trọng khoảng 4% trên tổng dư nợ của BIDV. Danh mục cho vay của BIDV cho các lĩnh vực xanh và phát triển bền vững đến năm 2025 dự kiến đạt 3 tỉ USD, chiếm khoảng 5% tổng dư nợ của BIDV.

Kể từ năm 2018, BIDV đã hạn chế cấp tín dụng đối với các lĩnh vực ảnh hưởng đến môi trường như các dự án năng lượng hóa thạch (nhiệt điện, điện than…), dự án thủy điện lớn, dự án gây phát thải nhà kính. Theo lộ trình đến năm 2035, BIDV sẽ không còn dư nợ cho vay các dự án nhiệt điện, điện than.

 
Ông Nguyễn Quốc Hưng - Giám đốc Ban Tài trợ dự án ngân hàng BIDV trình bày tham luận tại hội thảo.

Về thẩm định các dự án xanh tại BIDV. Ngân hàng đang chủ động triển khai công tác thẩm định các dự án xanh trên cơ sở tuân thủ các văn bản quy định pháp luật có liên quan, đồng thời tham khảo tư vấn của các tổ chức chuyên môn về tín dụng xanh trong và ngoài nước. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, phân loại, xác định dự án có tính xanh. Hiện nay, do khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, cụ thể là bộ tiêu chí xanh để các ngân hàng phân loại, xác định các dự án đầu tư xanh chưa được hoàn thiện. Do đó, BIDV triển khai việc phân loại, xác định dự án có tính xanh trên cơ sở lĩnh vực đầu tư của dự án và xem xét ảnh hưởng đến môi trường.

Ngân hàng đã xác định các dự án xanh dựa trên lĩnh vực đầu tư, mục đích vay vốn. Xây dựng các chương trình, gói tín dụng đặc thù, chính sách ưu đãi đối với tín dụng xanh, cũng như thực hiện quản lý danh mục tín dụng xanh của ngân hàng.

Đồng thời, BIDV chính thức ban hành Khung khoản vay bền vững vào tháng 2.2023 với sự tư vấn của tổ chức Carbon Trust và là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam công bố Khung khoản vay bền vững. Việc xây dựng Khung Khoản vay bền vững là cơ sở để xác định các dự án có tác động tích cực tới môi trường và xã hội, từ đó đẩy mạnh việc cung cấp các sản phẩm cho vay bền vững được thiết kế dành riêng cho các dự án xanh hoặc khuyến khích bên vay đạt được các chỉ tiêu hiệu quả bền vững.

Thứ hai, BIDV đã ban hành các văn bản quy định nội bộ hướng dẫn việc đánh giá rủi ro môi trường – xã hội phù hợp với các quy định pháp luật, hướng dẫn của NHNN và tư vấn của các dự án sử dụng nguồn vốn quốc tế. Trong đó, triển khai Thông tư 39/2016/TT-NHNN của NHNN quy định về cho vay của các tổ chức tín dụng, BIDV đã quy định điều kiện các khoản vay phải tuân thủ quy định của pháp luật (bao gồm Luật Bảo vệ môi trường). Luôn yêu cầu khách hàng đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn về môi trường theo quy định của pháp luật.

Không nhận thế chấp các loại hóa chất, khoáng vật có khả năng gây hại cho môi trường mà pháp luật cấm đầu tư kinh doanh, không nhận thế chấp quyền sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng bởi các loại đất này có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học.

BIDV thực hiện Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 của NHNN, BIDV đã ban hành Quy định về quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.

Bên cạnh đó, trong hoạt động cấp tín dụng sử dụng nguồn vốn từ các nhà tài trợ quốc tế khác như WB, EIB, ADB, AFD, BIDV đã có kinh nghiệm rà soát, đánh giá các dự án đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về môi trường xã hội, khung an toàn môi trường xã hội của các nhà tài trợ.

Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn vướng mắc trong việc thẩm định dự án xanh. Theo đó, Việt Nam chưa có cơ sở, căn cứ cụ thể trong việc xác định và phân loại dự án xanh. Điều này gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Hành lang pháp lý để triển khai quản lý rủi ro môi trường – xã hội, tín dụng xanh đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.

Do đó, ông Nguyễn Quốc Hưng kiến nghị Chính phủ, các Bộ, ban ngành sớm hoàn thiện khung pháp lý, chính sách tổng thể liên quan đến triển khai tài chính bền vững nói chung và tín dụng xanh nói riêng, định hướng phát triển từng ngành hướng đến mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050. Trước mắt, sớm ban hành Tiêu chí phân loại dự án xanh, hướng dẫn công bố thông tin tài chính khí hậu theo chuẩn quốc tế; đưa ra các quy định, hướng dẫn cụ thể, định hướng NHTM tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho tín dụng xanh.

Đối với Dự thảo Quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh. Việc xây dựng, ban hành Quy định chung về danh mục phân loại xanh gắn với các tiêu chí sàng lọc, ngưỡng và chỉ tiêu môi trường cụ thể là cần thiết đối với các tổ chức tín dụng để thực hiện một cách thống nhất, hiệu quả việc quản lý, điều hành đối với hoạt động tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh.

Quy định được Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu xây dựng trên cơ sở tham vấn danh mục dự án xanh, dự án đáp ứng tiêu chí môi trường của các quốc gia, tổ chức chuyên môn quốc tế. Do đó, việc áp dụng sẽ giúp các tổ chức tín dụng triển khai hoạt động tín dụng xanh tiệm cận với tiêu chuẩn chung của thế giới, từ đó đáp ứng các điều kiện của nhà tài trợ, góp phần thu hút nhiều hơn các nguồn vốn ưu đãi quốc tế cho lĩnh vực tín dụng xanh, phát triển bền vững.

Theo quy định tại Dự thảo, Giấy xác nhận dự án đầu tư thuộc Danh mục phân loại xanh là cơ sở để thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước theo quy định, ông Hưng đề xuất bổ sung hướng dẫn TCTD cách thức xử lý trong trường hợp Giấy xác nhận dự án đầu tư thuộc Danh mục phân loại xanh của khách hàng vay vốn bị thu hồi.

Đại diện BIDV đánh giá: “Các cơ chế, khuyến khích của Chính phủ, NHNN khi triển khai cấp tín dụng xanh hiện đang dừng ở mức khuyến khích chung. Chưa có cơ chế ghi nhận trong quá trình đánh giá, xếp hạng đối với tổ chức tín dụng có thành tích tốt trong hoạt động cấp tín dụng xanh, cũng như chưa có cơ chế hỗ trợ nguồn vốn/ kênh tiếp cận nguồn vốn thực sự hiệu quả để các tổ chức tín dụng đẩy mạnh tín dụng xanh.

Nguồn vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mang lại lợi ích môi trường, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng tại Việt Nam thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao nên rất cần các ưu đãi về thời hạn và chi phí vốn vay”

Do đó, ông Hưng đề xuất cần có cơ chế khuyến khích áp dụng cho các tổ chức tín dụng khi triển khai cấp tín dụng xanh bao gồm: Nghiên cứu đưa ra cơ chế đánh giá ưu tiên đối với các tổ chức tín dụng có thành tích tốt trong hoạt động tín dụng xanh khi đánh giá, xếp loại tổ chức tín dụng, có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các ngân hàng có tốc độ, quy mô triển khai cấp tín dụng xanh, có đóng góp thiết thực cho việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Hỗ trợ tái cấp vốn ưu đãi hoặc tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ các định chế quốc tế. Giảm hệ số rủi ro tín dụng đối với các khoản vay tài trợ dự án xanh, tương tự như cơ chế áp dụng cho khoản vay mua nhà ở xã hội tại Dự thảo sửa đổi Thông tư 41/2016/TT-NHNN.

Về nguồn nhân lực của đơn vị khi triển khai tín dụng xanh, ông Hưng cho rằng còn hạn chế về kiến thức kỹ thuật chuyên ngành về môi trường, các yếu tố xanh và bền vững trong việc triển khai tín dụng xanh.

“Để nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ nhân sự thẩm định tín dụng tại các ngân hàng, tôi đề xuất NHNN phối hợp với các Bộ, ban ngành liên quan đẩy mạnh công tác đào tạo để các tổ chức tín dụng nắm rõ các tiêu chí, quy định liên quan đến dự án xanh, tín dụng xanh ngay khi các văn bản quy định được ban hành. NHNN hỗ trợ mời các tổ chức chuyên môn, định chế uy tín trên thế giới chia sẻ kiến thức chuyên ngành, tư vấn kỹ thuật để giúp đội ngũ nhân sự tại các tổ chức tín dụng trong nước có thêm điều kiện học hỏi kinh nghiệm”.

9h37:

Tăng cường nhận thức trong ngành ngân hàng về chuyển đổi xanh 

Ông Phạm Minh Tú – Phó Viện trưởng Viện chiến lược Ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước – cho biết, ngân hàng xanh được hiểu theo hai khía cạnh. Thứ nhất, hệ thống ngân hàng định hướng dòng vốn tín dụng vào các ngành bảo vệ môi trường, xanh hoá nền kinh tế. Thứ hai, bản thân các ngân hàng cũng phải xanh hoá, tạo sức lan toả ra hệ thống tài chính và nền kinh tế trong việc bảo vệ môi trường.

 
Ông Phạm Minh Tú – Phó Viện trưởng Viện chiến lược Ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước.

Ngành ngân hàng thời gian qua đã chủ động cụ thể hoá các định hướng, chiến lược của chính phủ. Năm 2014, Chính phủ đưa ra Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020. NHNN cũng lập tức cũng có kế hoạch ngay sau đó.

Gần đây nhất là Quyết định 882 về Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030. NHNN cũng có Quyết định 1408 về kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030. Với đề án này, NHNN đã bám vào hai mảng chính là định hướng dòng vốn xanh của nền kinh tế và xanh hoá các ngân hàng.

 

Theo ông Tú, kết quả đến nay, tín dụng xanh cho ngân hàng xanh tăng trưởng qua các năm. Từ năm 2018 chỉ chiếm 3,33% trong tổng tín dụng của nền kinh tế, đến năm 2022 đã tăng lên 4,20%.

Hiện nay, có rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng đã ban hàng quy định nội bộ về rủi ro môi trường và tác động xã hội. Theo thống kê, 80 - 90% các ngân hàng đã áp dụng một phần hoặc toàn bộ ESG trong hoạt động. Có tới gần 50% các ngân hàng và tổ chức tín dụng thành lập bộ phận quản trị rủi ro cho bảo vệ môi trường.

“Trong thời gian vừa qua ngành ngân hàng đã tích cực chuyển đổi số. Hoạt động giảm thiểu tối đa sử dụng giấy tờ. Có nhiều ngân hàng đã số hoá hoàn toàn, sử dụng robot tự động, qua đó xanh hoá chính bản thân mình, từ đó có sức lan toả ra cộng đồng” – ông Tú cho hay.

Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại 4 vướng mắc chính.

Thứ nhất, các quy định về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các tổ chức tín dụng thực hiện mà chưa mang tính bắt buộc.

Thứ hai, nhiều ngân hàng chưa xây dựng được quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội, chưa có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường và xã hội.

Thứ ba, kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan đến các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn rất hạn chế.

Thứ tư, cơ chế huy động tạo nguồn vốn cho tín dụng xanh còn hạn chế. Việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi dành cho tín dụng xanh từ các tổ chức tài chính quốc tế còn gặp nhiều khó khăn.

Ngoài ra, trong quá tình theo dõi và giám sát, ông Tú nhấn mạnh mức độ nhận thức của đội ngũ cán bộ trong các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong chuyển đổi xanh vẫn một số hạn chế. Trong khi đây lại là xu hướng không thể không triển khai. Có một số ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng số khác lại chậm chân. Điều này sẽ là thiệt thòi và khiến chính những ngân hàng đó đánh mất đi cơ hội lớn. Do đó, ông Tú đề xuất các ngân hàng, tổ chức tín dụng nên thành lập những bộ phận đi trước đón đầu để thẩm định rủi ro ESG.

9h22: Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Xuân Bắc – Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho biết trong quá trình phát triển, thu nhập và mức sống của người dân được cải thiện thì vấn đề môi ngày càng được quan tâm. Với phương châm lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ, Chính phủ và các bộ ngành rất quan tâm đến vấn đề môi trường.

Trong thời gian qua NHNN, đã chủ trương thúc đẩy tín dụng xanh góp phần bảo vệ môi trường, thực hiện tốt chiến lược quốc gia về tín dụng xanh. Việt Nam là một trong những quốc gia thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, tác động đến đời sống, sinh kế của người dân. Việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh sẽ tạo ra tiềm năng to lớn để Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển bền vững và giảm đói nghèo.

 
Ông Nguyễn Xuân Bắc – Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh Tuấn Anh

Chính vì thế, thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, như: cam kết thực hiện và thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc (2005); ký Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu (2006); và gần đây nhất, tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ đưa mức phát thải ròng của Việt Nam về “0” vào giữa thế kỷ - năm 2050.

Theo ông Nguyễn Xuân Bắc, ngành ngân hàng với vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, vì vậy, việc triển khai các giải pháp từ ngành ngân hàng sẽ định hướng dòng vốn tín dụng đầu tư vào các dự án xanh, thân thiện với môi trường, từ đó góp phần thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.

 
Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước - ông Đào Minh Tú và Tổng Biên tập báo Lao Động - ông Nguyễn Ngọc Hiển đồng chủ trì hội thảo.

Cụ thể: Thứ nhất, trên cơ sở bám sát mục tiêu của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước, NHNN đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định môi trường kinh doanh,... tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư thực hiện các dự án góp phần bảo vệ môi trường, hỗ trợ tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Thứ hai, NHNN đã xây dựng định hướng phát triển ngân hàng xanh thông qua việc: Ban hành Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam (quyết định 1604/QĐ-NHNN ngày 7.8.2018), và bổ sung, lồng ghép định hướng phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh vào nội dung của chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 8.8.2018), nhằm tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng trong việc bảo vệ môi trường; từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng; thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh” để góp phần chuyển đổi nền kinh tế sang hướng tăng trưởng xanh, phát thải carbon thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng tỷ trọng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, các ngành sản xuất và tiêu dùng ít carbon. Lồng ghép các nội dung về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh trong các chương trình, dự án vay vốn tín dụng. Đến năm 2025, 100% ngân hàng xây dựng được quy định nội bộ và thực hiện đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng.

Thứ ba, NHNN đã ban hành kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2030, Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (quyết định số 1408/QĐ-NHNN ngày 26.7.2023 và quyết định số 1731/QĐ-NHNN ngày 31.8.2018) với 3 mục tiêu chính.

Một là thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của ngành ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được mục tiêu thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường. Hai là nâng cao nhận thức, vai trò và năng lực của ngành ngân hàng trong thực hiện cấp tín dụng cho các ngành/lĩnh vực xanh, quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đối với các ngành, lĩnh vực phát thải cao; tăng dần tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh, thực hiện quản lý rủi ro về môi trường và xã hội; phát triển các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đẩy mạnh thực hiện tăng trưởng xanh. Ba là phát triển các mô hình ngân hàng số, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 để xanh hóa hoạt động ngân hàng, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ.

Thứ tư, để cụ thể hóa các định hướng, mục tiêu phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh, NHNN đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn hoạt động cho vay, cấp tín dụng, quản lý rủi ro về môi trường đảm bảo phù hợp với Luật bảo vệ môi trường, như: Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30.12.2006 về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng, Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24.3.2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng.

Theo đó, Thống đốc NHNN đặt ra yêu cầu ngành ngân hàng phải thực hiện rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tín dụng cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh; tập trung nguồn lực để cấp tín dụng cho các dự án, phương án sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường. Đồng thời, NHNN đã phối hợp với một số tổ chức quốc tế xây dựng hướng dẫn các TCTD xác định và thống kê hoạt động cấp tín dụng cho 12 lĩnh vực xanh, Ban hành Sổ tay hướng dẫn tổ chức tín dụng thực hiện đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho 15 ngành kinh tế có rủi ro cao về môi trường xã hội.

Và gần đây nhất, NHNN đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23.12.2022 hướng dẫn TCTD thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thể hiện trách nhiệm của ngành ngân hàng thực hiện công tác bảo vệ môi trường, đồng thời tăng cường sức chống chịu của hệ thống ngân hàng trước rủi ro về môi trường. Theo quy định tại Thông tư 17, chậm nhất 1.6.2023 các TCTD phải hoàn thành việc xây dựng quy định nội bộ để quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.

Thứ năm, NHNN chỉ đạo triển khai các chương trình tín dụng xanh thuộc một số ngành, lĩnh vực, như: Trong lĩnh vực nông nghiệp xanh: trình cấp có thẩm quyền ban hành/ban hành theo thẩm quyền các chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, hỗ trợ lãi suất, ưu đãi tài sản bảo đảm đối với khách hàng thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch (Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 9.6.2015 và Nghị định 116/2018/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, Quyết định 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch; cho vay tái canh cây cà phê tại Khu vực Tây nguyên,…).

Theo đó, nông nghiệp sạch được ưu đãi lãi suất cho vay thấp hơn từ 0,5-1,5%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường cùng kỳ hạn. Trong lĩnh vực lâm nghiệp: Triển khai các chương trình cho vay trồng rừng sản xuất theo Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 9.9.2015 của Chính phủ; cho vay Dự án phát triển ngành Lâm nghiệp được thực hiện thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội. Trong lĩnh vực nhà ở và môi trường: Triển khai các chương trình hỗ trợ người nghèo về nhà ở phòng tránh biến đổi khí hậu như: Chương trình cho vay xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt ở miền Trung, làm nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long; các chương trình tín dụng góp phần giảm thiểu hiệu ứng khí nhà kính và giảm ô nhiễm môi trường như chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn...

Thứ sáu, NHNN đã nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách, đề án, dự án nhằm phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, sử dụng công nghệ cao, góp phần phục vụ tăng trưởng xanh, như: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về lĩnh vực thanh toán; Triển khai Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt; Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với việc thu phí các dịch vụ công; Phát triển phương tiện và các dịch vụ thanh toán qua Internet, qua di động, qua mã QR code,...

Ngoài ra, NHNN đã triển khai một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại như: trình Thủ tướng Chính phủ Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm cho hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng; Nghiên cứu Đề tài về công nghệ Blockchain/sổ cái phân tán để có giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo nền tảng cho sự phát triển của lĩnh vực Fintech…

Hầu hết các ngân hàng đều ứng dụng các công nghệ mới, giải pháp kỹ thuật như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu, dữ liệu lớn, tự động hóa quy trình bằng robot, trí tuệ nhân tạo/ học máy, Blockchain, nhận biết và định danh khách hàng bằng phương thức điện tử (eKYC),... trong các hoạt động nghiệp vụ và cung ứng sản phẩm, dịch vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng trải nghiệm khách hàng.

Thứ bảy, NHNN thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng trong thực hiện tín dụng xanh, như: Tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực cho các TCTD và cá nhân tham gia xây dựng và triển khai cơ chế, chính sách, chương trình, sản phẩm tín dụng xanh; Tích cực đàm phán nhằm huy động nguồn lực từ các tổ chức tài chính quốc tế, tài trợ song phương và đa phương để các TCTD có nguồn lực tài trợ tín dụng cho khách hàng thực hiện các dự án xanh. “Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, thời gian qua, nhận thức của hệ thống ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ rệt trong thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh” – ông Bắc nhận định.

Ông Nguyễn Xuân Bắc – Phó Vụ Trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN).
Ông Nguyễn Xuân Bắc – Phó Vụ Trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) phát biểu tại hội thảo.

Theo ông Nguyễn Xuân Bắc giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Đến 30.6.2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt gần 528,3 nghìn tỉ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh NHNN hướng dẫn các TCTD cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm 45%) và nông nghiệp xanh (31%). Các TCTD đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt gần hơn 2.485 triệu tỉ đồng, chiếm gần 20%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế.

Việt Nam được đánh giá là một trong 38 thị trường đang phát triển có những bước tiến đáng kể trong nỗ lực thúc đẩy ngành tài chính ngân hàng hướng tới phát triển bền vững và được xếp vào nhóm các quốc gia trong giai đoạn triển khai Ma trận tiến bộ SBN, được xếp thứ hạng cao so với các nước châu Á và toàn cầu trong các chính sách liên quan đến đóng góp quốc gia tự quyết NDCs – một nội dung quan trọng của Thỏa thuận Paris.

Ông Nguyễn Xuân Bắc cho biết bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai các giải pháp nhằm thúc đẩy tín dụng xanh hiện nay còn gặp một số khó khăn như: Chưa có quy định chung của quốc gia về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành/lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các TCTD xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới. Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu sẽ là khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng (nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo thời gian thực hiện chưa dài, hiệu quả phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mẫu), khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng do còn thiếu cơ sở pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường.

Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, công trình xanh thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn hạn, khó khăn cho các TCTD trong việc cân đối vốn và đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định; Hạn chế trong ý thức bảo vệ môi trường của người dân, doanh nghiệp dẫn đến bị xử phạt vi phạm pháp luật về môi trường ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, tiềm ẩn rủi ro thu hồi nợ cho các TCTD.

Trên cơ sở bám sát các mục tiêu của Quyết định 1658/QĐ-TTg về Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh, thời gian tới, NHNN tiếp tục thực thi các chính sách tín dụng nhằm thúc đẩy hoạt động của ngành ngân hàng hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, góp phần hỗ trợ phục hồi kinh tế sau dịch bệnh COVID-19 cụ thể: Triển khai Quyết định số 1408/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN phê duyệt Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và Đề án những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu.

Theo dõi, hướng dẫn các TCTD thực hiện quản lý rủi ro về môi trường theo Thông tư số 17/2022/TT-NHNN, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các TCTD trong quá trình thực hiện. Hướng dẫn các TCTD thống kê tình hình cấp tín dụng xanh đối với Danh mục phân loại xanh quốc gia sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Danh mục phân loại dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh (hiện Bộ Tài nguyên và Môi trường đang hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường).

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, phát triển nền tảng số, hạ tầng số, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số để phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, góp phần phát triển bền vững. Tích cực triển khai công tác đào tạo nâng cao năng lực cho các TCTD trong triển khai phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh. Đẩy mạnh đàm phán, tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính quốc tế, các TCTD trong nước tham gia hoạt động hợp tác quốc tế tài trợ vốn cho các dự án xanh.

“Để các cơ chế, chính sách của ngành ngân hàng thực sự phát huy hiệu quả nhằm mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh, NHNN đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ngành rà soát, tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lý từ đó, sớm ban hành Danh mục phân loại xanh làm cơ sở cho các TCTD có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh. Sớm hoàn thiện Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam trong đó làm rõ vai trò tham gia của các định chế tài chính, các TCTD trong triển khai, thực hiện” - ông Bắc đề nghị.

9h00: Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú phát biểu khai mạc hội thảo.

Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Thống đốc Đào Minh Tú gửi lời cảm ơn tới các quý vị khách quý, các đại biểu đến tham dự Hội thảo “Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero” do Báo Lao Động phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước tổ chức.

 
Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh Tuấn Anh

Phó Thống đốc cho biết, trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang dần trở thành thách thức lớn nhất đối với nhân loại với những nguy cơ đe dọa tính mạng con người và tài sản của nhiều quốc gia thì việc ứng phó với biến đổi khí hậu và phục hồi thiên nhiên đã trở thành ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới.

Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, giảm dần sử dụng các nguyên liệu hóa thạch và tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong phát triển kinh tế đang là xu thế và hướng đi của nhiều nền kinh tế, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, để ứng phó có hiệu quả với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.

 
Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú chia sẻ ý kiến tại hội thảo.

Là một trong số những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, trong thời gian qua Việt Nam luôn chủ động và tích cực triển khai nhiều hoạt động vừa ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Trong bối cảnh này, những cam kết mạnh mẽ của Thủ tướng Chính phủ và những đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26) với quyết tâm đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, qua đó mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu, tạo đà thuận lợi để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.

Để hiện thực hoá mục tiêu trên, Ban Chỉ đạo quốc gia về triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 đã được thành lập với sự tham gia của nhiều Bộ, ngành (trong đó có Ngân hàng Nhà nước) cùng với các chương trình, nhiệm vụ cụ thể, khẳng định quyết tâm, trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế.

 
Các đại biểu tham dự hội thảo. Ảnh Tuấn Anh

Theo Phó Thống đốc, thời gian vừa qua, Việt Nam và thế giới đã phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có như đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu, suy giảm kinh tế toàn cầu… Cùng với cả nước, ngành ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, đối phó với tác động tiêu cực, duy trì ổn định sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần vào sự phục hồi, ổn định của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng luôn tích cực và nỗ lực hướng đến các mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, như: Phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam; Ban hành Chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh phù hợp với từng giai đoạn, thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia; Ban hành Thông tư hướng dẫn các tổ chức tín dụng quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; Lồng ghép mục tiêu tăng dần tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh trong tổng dư nợ tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng trong Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến 2030, tạo cơ sở định hướng kinh doanh cho các tổ chức tín dụng...

 
Toàn cảnh hội thảo sáng ngày 9.9.

“Tiếp tục triển khai các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, hôm nay, NHNN đã phối hợp với Báo Lao động tổ chức Hội thảo "Tín dụng xanh – Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero" với mong muốn tiếp tục tạo diễn đàn để các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức tín dụng, các đơn vị tư vấn tài chính, các doanh nghiệp trong nước, các tổ chức quốc tế, các Hiệp hội, chuyên gia trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn triển khai tại Việt Nam, đề xuất các giải pháp hiệu quả để góp phần thúc đẩy tín dụng xanh, ngân hàng xanh, kế hoạch phát triển thị trường vốn, tham gia thị trường carbon để tập trung nguồn lực phát triển bền vững tại Việt Nam” – ông Tú nói.

Để Hội thảo đạt được kết quả như kỳ vọng, lãnh đạo NHNN mong muốn các đại biểu tập trung trao đổi, thảo luận vào các vấn đề chính sau:

Thứ nhất, đánh giá vị trí, vai trò của tín dụng xanh, ngân hàng xanh góp phần thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thực hiện Đề án triển khai kết quả Hội nghị COP26 và thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050; Đánh giá sự phù hợp của cơ chế, chính sách tín dụng thúc đẩy tín dụng xanh, ngân hàng xanh của Việt Nam trong thời gian qua, kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc, hạn chế, nguyên nhân...

Thứ hai, đánh giá cơ hội và thách thức của ngành ngân hàng trong việc tham gia đóng góp nguồn lực để Việt Nam hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050, kinh nghiệm quốc tế.

Thứ ba, các điều kiện và giải pháp từ cơ quan quản lý Nhà nước để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát triển tín dụng xanh, cũng như tham gia các thị trường tài chính xanh, thị trường carbon để tập trung huy động nguồn lực cho phát triển bền vững của Việt Nam.

Thứ tư, thông qua các bài trình bày, tham luận của các diễn giả tại Hội thảo, sẽ gợi mở những cách thức, hướng đi mới, đóng góp thiết thực giúp các cơ quan quản lý Nhà nước kịp thời hoàn thiện cơ chế góp phần thúc đẩy huy động nguồn lực xanh cho phát triển bền vững, đồng thời tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng tận dụng các cơ hội tham gia thị trường tài chính xanh, phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh.

Ông Tú chia sẻ: “Chủ đề đề tín dụng xanh hôm nay được chọn lựa thể hiện sự quyết tâm cao. Trước hết của Chính phủ Việt Nam nói chung cũng như NHNN trong thể hiện trách nghiệm của mình, bằng các giải pháp thực hiện tốt các cam kết và phấn đấu để đạt được Net Zero vào năm 2050. Từ khi chúng ta cam kết tại COP26 đã có rất nhiều cơ hội và thách thức xuất hiện. Trong đó, ngành ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong để tạo nguồn lực giúp các doanh nghiệp đầu tư dự án, chương trình, cơ sở hạ tầng nhằm giảm thiểu phát thải, bảo vệ môi trường, hướng tới nền kinh tế xanh, tín dụng xanh.

Gần đây, rất nhiều hiệp hội, doanh nghiệp đã đặt ra vấn đề khi đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội, làm sao để tiếp cận nguồn vốn, nguồn lực để đầu tư cho các dự án. Tiêu biểu với dệt may, họ nói đây là cơ hội và không thể chậm chân trong tiếp cận với những quy định trong chứng chỉ carbon. Bởi sau này tất cả những sản phẩm xuất khẩu ra thế giới sẽ đều quy định có những chứng chỉ tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Nền kinh tế xanh nói chung và và tín dụng xanh nói riêng đang rất thời sự. Đây là vấn đề cấp bách chứ không thể chậm trễ trong chuyển đổi”.

* Tín dụng xanh, ngân hàng xanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc triển khai thành công Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn năm 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mặc dù Việt Nam đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song sự phát triển của lĩnh vực này ở Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng.

 
Hội thảo "Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero” . Ảnh Tuấn Anh

Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng Việt Nam còn nhiều khó khăn, thách thức. Để triển khai tăng trưởng xanh cần có bộ tiêu chí phân loại xanh. Bộ tiêu chí về phân loại xanh là tiêu chí quan trọng để ngân hàng lựa chọn các dự án đầu tư xanh. Đây là nền tảng quan trọng huy động nguồn lực trong nước và quốc tế, đánh giá tiến độ thực hiện tăng trưởng xanh của Việt Nam.

Có được Bộ tiêu chí xanh sẽ giúp các dự án xanh tiếp cận được nguồn tài chính xanh trong nước và quốc tế, chính sách ưu đãi hỗ trợ đầu tư mới. Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh, tài chính xanh, ngân hàng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam.

Hội thảo “Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero” do báo Lao Động phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước tổ chức sẽ được truyền hình trực tiếp trên Lao Động điện tử www.laodong.vn và Fanpage của Báo Lao Động, Báo điện tử Chính phủ và Fanpage Thông tin Chính phủ vào lúc 9h sáng ngày 9.9.2023.

Tham dự Hội thảo có đại diện lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính; Đại diện một số ngân hàng thương mại; Đại diện lãnh đạo KPMG, Deloitte; Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, môi trường, mua bán tín chỉ carbon…

Nhóm PV
TIN LIÊN QUAN

Hội thảo "Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero"

Đức Mạnh |

9h ngày 9.9.2023, Báo Lao Động phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức Hội thảo “Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero”.

Cơ hội sinh lợi cho các tập đoàn từ thị trường tín dụng xanh

Tuyết Lan (Theo WSJ) |

Đạo luật Giảm lạm phát mang đến cho các tập đoàn ở Mỹ một cơ hội mới: Chi 910.000 USD để mua các khoản tín dụng xanh và được miễn trừ 1 triệu USD khỏi hóa đơn thuế.

Để không bỏ lỡ hàng trăm triệu USD tín dụng xanh

Lan Hương |

Thị trường tài chính xanh Việt Nam đang đứng trước cơ hội phát triển nhanh và có thể tiếp cận hàng tỉ USD tín dụng xanh từ quốc tế. Tuy nhiên, những trở ngại về mặt pháp lý và điều phối, nên đến nay Việt Nam tiếp cận tài chính xanh bị hạn chế rất nhiều.

Choáng váng với số nhà "siêu xuyệt" ở TPHCM, shipper, xe cấp cứu phải "chào thua"

HỮU CHÁNH - NHƯ QUỲNH |

Những con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo với nhiều số nhà siêu xuyệt/sẹc (gạch chéo trên biển số nhà) tại Nhà Bè (TPHCM) đang là câu chuyện đau đầu đối với chính quyền địa phương và người dân.

Ngày mai, xét xử cựu Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương

ĐÌNH TRỌNG |

Ngày 11.9, Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Dương sẽ đưa ra xét xử vụ án liên quan đến cựu Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) tỉnh Bình Dương cùng 16 bị cáo khác.

Quán bánh cuốn Thanh Trì kèm cà cuống bán hơn nghìn suất mỗi ngày ở Hà Nội

Nhật Minh |

Quán bánh cuốn Thanh Trì gia truyền trên phố Tô Hiến Thành (Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) đắt khách với món ăn kèm đặc biệt: cà cuống.

Cầu Lò Đường bắc qua kênh bất ngờ sập trong đêm ở TPHCM

Anh Tú |

Ngày 10.9, lực lượng chức năng quận Bình Tân, TPHCM đang phong tỏa hiện trường để xử lí vụ cây cầu Lò Đường (phường Tân Tạo, quận Bình Tân, TPHCM) bị sập trong đêm 9.9.

Tiết lộ nền kinh tế hoạt động kém nhất của EU

Thanh Hà |

Ba Lan ghi nhận mức giảm GDP lớn nhất trong số 27 thành viên Liên minh châu Âu (EU) trong quý 2 năm 2023.

Hội thảo "Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero"

Đức Mạnh |

9h ngày 9.9.2023, Báo Lao Động phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức Hội thảo “Tín dụng xanh - Việt Nam không thể chậm chân với Net Zero”.

Cơ hội sinh lợi cho các tập đoàn từ thị trường tín dụng xanh

Tuyết Lan (Theo WSJ) |

Đạo luật Giảm lạm phát mang đến cho các tập đoàn ở Mỹ một cơ hội mới: Chi 910.000 USD để mua các khoản tín dụng xanh và được miễn trừ 1 triệu USD khỏi hóa đơn thuế.

Để không bỏ lỡ hàng trăm triệu USD tín dụng xanh

Lan Hương |

Thị trường tài chính xanh Việt Nam đang đứng trước cơ hội phát triển nhanh và có thể tiếp cận hàng tỉ USD tín dụng xanh từ quốc tế. Tuy nhiên, những trở ngại về mặt pháp lý và điều phối, nên đến nay Việt Nam tiếp cận tài chính xanh bị hạn chế rất nhiều.