Loại cây rất quen
Đu đủ là loại cây ăn trái nhiệt đới, được trồng phổ biến rộng rãi nhiều nơi. Từ vùng núi cao đến miệt đồng bằng sông nước, cây đu đủ vẫn sống và phát triển tốt. Giá trị dinh dưỡng của đu đủ khá cao. Tuy vậy, chuyện xuất khẩu đu đu vẫn chưa được đề cập nhiều trong ngành giống cây trồng Việt Nam.
Cây đu đủ thường được trồng xen cây lâu năm hoặc trồng thành vườn chuyên canh. Đu đủ cho năng suất rất cao, làm tăng thu nhập kinh tế gia đình của người trồng đu đủ. Cây đu đủ phát triển tốt trong điều kiện khí hậu ấm và ẩm, lượng mưa 100mm/tháng, không bị che bóng mát.
Đu đủ thích hợp với loại đất ít phèn, mặn. Tốt nhất, pH từ 5,5 – 6,5, đất tơi xốp, dễ thoát nước. Chính vì vậy, đu đủ tích ở đất gò cao, nếu trồng ở vùng đồng bằng, đất bằng phẳng nên lên mương líp, nên giữ mực nước trong mương với độ sâu 50-60 cm cách mặt líp. Đây là loại cây háo nước, nhưng đễ bị úng. Chính vì vậy, khi bị ngập úng lâu ngày dễ bị thối rể mà dẫn đến vàng lá, rụng trái, hậu quả là cây ít trái, năng suất thấp.
Đu đủ có khả năng trổ hoa và đậu trái quanh năm, tuy có mùa ít hoặc không đậu trái. Theo kinh nghiệm của các nhà vườn, để trồng đu đủ đạt năng suất cao, trái đẹp, hạn chế sâu bệnh, có thể bố trí trồng đu đủ vào các vụ sau: Vùng đất chủ động tưới tiêu, trồng đu đủ vào mùa mưa (tháng 7 – tháng 8 dương lịch); vùng đất kém chủ động nước (vùng bị ảnh hưởng của nước lũ) trồng sau khi nước rút. Khi trồng, cây con phải đạt từ 20 -30 ngày tuổi.
Chọn giống, bón phân cho đu đủ
Hiện nay, đu đủ được trồng nhiều loại giống khác nhau nhưng phổ biến nhất là giống Đu đủ Thái Lan và Đu đủ Đài Loan. Gần đây xuất hiện giống đu đủ siêu lùn, đu đủ siêu trái, đu đủ vàng… Tuy nhiên, để lựa chọn giống đu đủ không phải chuyện dễ. Bởi tùy theo từng vùng, thị hiếu của người tiêu dùng khác nhau, nên chọn giống sao cho khi thu hoạch bán ra thị trường phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Đối với đu đủ Thái Lan vẫn được nhiều người trồng chọn lựa. Đây là giống mới du nhập vào nước ta và được các hộ nông dân ở các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đưa vào trồng. Giống đu đủ này có hiệu quả kinh tế cao, ra trái quanh năm, trái to, cân nặng khoảng 2kg, thịt cứng và ngọt, bảo quản trái được lâu nên người tiêu dùng ưa chuộng
Đu đủ Đài Loan được trồng phổ biến ở Việt Nam hiện nay, giống cây dễ trồng, cây sinh trưởng khoẻ, vốn đầu tư thấp, có khả năng chống chịu bệnh virus cao, ít sâu bệnh, cho năng suất cao, thu hoạch quả 60-70kg/cây. Đu đủ Đài Loan cho thịt quả màu vàng cam, ngọt, thơm, mềm mà không nát, vỏ quả cứng dễ bảo quản và vận chuyển. Quả nặng trung bình 1,5kg, song có quả đạt 3kg.
Ngoài ra còn có một số giống nhập nội hiện đang trồng phổ biến như:
Giống EKSOTIKA: Cho phẩm chất ngon, thịt trái màu đỏ tía, chắc thịt, tươi đẹp, hàm lượng đường 13 – 14%, trọng lượng trái 500g – 1kg.
Giống Sola: Có đặc điểm gần giống như EKSOTIKA nhưng thịt trái chắc hơn, thơm ngon hơn, hàm lượng đường 15 – 17%, trọng lượng trái 300 – 500g
Bón phân cho đu đủ là khâu rất quan trọng, quyết định đến hiệu quả của người trồng. Theo các nhà vườn tại ĐBSCL, bón lót: Từ 1-2kg phân sinh học, 200gr vôi.
Cây từ 1 tháng tuổi sau khi trồng: 50gr Phân NPK 16-12-8-11+TE. Pha trong 10 lít nước, tưới cho cây. 1 tuần tưới 1 lần. Cây từ 1 – 3 tháng tuổi sau khi trồng: Lượng phân bón tính cho 1 cây: 50-100gr/1 lần. Bón 15-20 ngày 1 lần.
Cây từ 3 - 7 tháng tuổi sau khi trồng bón: Lượng phân bón tính cho 1 cây: 100-150gr NPK 12-12-17-9+TE. Bón 1 tháng 1 lần. Đến tháng thứ 6, có thể bón thêm 1kg phân hữu cơ sinh học HG01 và 100gr vôi cho một cây, kết hợp vun gốc.
Có thể phun thêm phân bón lá. Phun định kỳ 3 -4 tuần/lần theo nồng độ hướng dẫn.
Đu đủ là loại cây cần nhiều nước nhưng rất sợ úng. Do đó cần cung cấp đầy đủ nước cho cây vào mùa nắng và thoát nước tốt cho cây vào mùa mưa hoặc khi bị úng, lũ.
Làm cỏ: Cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng và là nơi trú ẩn của sâu bệnh. Cần làm thường xuyên quanh gốc. Tủ gốc: Dùng rơm hoặc cỏ khô tủ quanh gốc vào mùa nắng để giữ độ ẩm và giữ nhiệt độ thích hợp cho cây. Sâu bệnh thường gặp trên cây đủ đủ là nhện đỏ: Thường gây hại cho cây vào mùa nắng, ở dưới mặt lá. Lá bị hại có đốm vàng, loang lỗ, sau đó lá bị cháy và rụng. Khi cây gặp loại nhện này gây hại cần phun một trong những loại thuốc sau đây: Danitol, Bi 58 nồng độ 0.1%. Luân phiên đổi thuốc hoặc có thể trộn hỗn hợp 2 loại thuốc để phun, vì nhện đỏ rất kháng thuốc.
Cuối cùng là thu hoạch và bảo quản. Hai khâu này cũng khá quan trọng, bởi quyết định đến trái đẹp bắt mắt. Vì vậy cần “nâng niêu” tránh trái bị dập, bảo quản đúng kỹ thuật.