Ai cũng thấy rằng, taxi công nghệ mà đơn cử ở đây là thương hiệu Uber, Grab mang lại nhiều tiện ích, nhưng nếu không quản lí - như thực trạng hiện nay - thì mặt trái là hệ lụy nó mang lại cũng là một vấn nạn: góp phần khiến tình trạng ùn tắc giao thông tại các đô thị lớn đặc biệt là Hà Nội và TPHCM, trong đó trọng điểm là những khu vực trung tâm, thêm trầm trọng.
Và chúng ta cũng cần nhớ rằng, chỉ mới cho phép Grab và Uber thử nghiệm thôi, mà con số xe ôtô vận chuyển hành khách theo hợp đồng dưới 9 chỗ tại TPHCM cơ quan quản lí nắm rõ được đã hơn 22.000 chiếc. Vậy một khi cho chính thức cung cấp dịch vụ, mà không hề có qui hoạch giới hạn số lượng phương tiện cũng như các qui định để quản lí một cách hợp lí và chặt chẽ, thì số lượng phương tiện ôtô Uber, Grab sẽ còn tăng đến bao nhiêu chiếc?
Chúng ta đã rất hào hứng với taxi công nghệ. Cũng đúng thôi, tâm lí người dùng đối với dịch vụ taxi truyền thống lâu nay là... bị đi với giá cao, thiếu tiện ích trong việc gọi xe cũng như việc lưu giữ thông tin nhằm bảo đảm an toàn cho hành khách.v.v...; cho nên khi có "làn gió mới" taxi công nghệ du nhập vào với mức giá cước rẻ hơn, tiện ích hơn thì người tiêu dùng đã hồ hởi đón nhận và ủng hộ.
Tuy nhiên, về mặt quản lí thì không nên cứ đồng hành với tâm lí người dùng. Người tiêu dùng cứ thấy dịch vụ giá rẻ, tiện ích hơn, có thêm nhiều khuyến mãi, là họ lựa chọn. Nhưng đối với cơ quan quản lí, những hệ lụy phát sinh chính là vấn đề cần quan tâm giải quyết. Nếu không giải quyết, hệ lụy có thể trở thành thảm họa.
Taxi công nghệ chỉ là một mảng trong lĩnh vực GTVT đầy phức tạp và thách thức tại Việt Nam mà trong đó ùn tắc đường sá, kẹt xe đang là vấn nạn lớn nhất chưa giải quyết được. Trong khi hiện thực ùn tắc giao thông đô thị còn đang bế tắc giải pháp tháo gỡ, thì lại thêm những hệ lụy mới ập đến càng làm cho thực trạng hiện tại thêm trầm trọng.
Bộ GTVT không thể tiếp tục thả nổi qui hoạch (là chưa có qui hoạch gì) đối với loại hình taxi công nghệ nói chung và Uber, Grab nói riêng. Không chỉ phải qui hoạch về số lượng phương tiện, địa bàn được phép lưu hành, mà còn cần ban hành những qui định mới để quản lí taxi công nghệ nhằm tạo môi trường kinh doanh công bằng và lành mạnh, trong đó vấn đề mức thuế đối với taxi công nghệ cũng là một trọng tâm.
Nếu các cơ quan quản lí về GTVT không quản lí được taxi công nghệ, để bị vỡ trận ngày càng nghiêm trọng như hiện nay, thì làm sao làm nổi những việc lớn hơn là quản lí giao thông của cả một quốc gia? Nếu hiện nay việc thống kê tổng số phương tiện taxi công nghệ, xe ôm công nghệ của cơ quan quản lí còn như "đếm cua trong lỗ" thì làm sao tính toán được những bài toán, giải pháp qui hoạch giao thông cho cả nước? Xin hãy bắt đầu từ những việc ở phạm vi hẹp hơn, từ những bức xúc của người dân và xã hội về giao thông đô thị hiện nay, để giải quyết, thì mới thuyết phục được người dân.