Như chúng ta được biết, máu là một chế phẩm độc nhất vô nhị được lấy ra từ con người. Khoa học từ xưa đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào để thay thế máu bằng bất cứ một chế phẩm khác để trị bệnh. Do vậy, làm sao để có nguồn dự trữ máu từ việc hiến máu để trị bệnh luôn là nỗi lo âu, trăn trở cho ngành y tế nói riêng, cho toàn xã hội nói chung.
Khi nói “một giọt máu cho đi, một cuộc đời ở lại” không phải là câu nói suông mà nó hàm chứa ý nghĩa rất quan trọng. Nó cho thấy tầm quan trọng của công tác hiến máu nghĩa tình (HMTN) hay cụ thể hơn là người HMTN - giải pháp thứ 2; đồng thời cũng nói lên lòng biết ơn của bệnh nhân khi được tiếp máu.
Theo tính toán khi đề xuất giải pháp này, Bộ Y tế mong muốn mỗi năm với số lượng người hiến máu bắt buộc (HMBB) khoảng 46 triệu người với nguồn tiêu tốn trên dưới 4.000 tỉ đồng thì không còn phải lo thiếu hụt nguồn dự trữ máu để phục vụ cho bệnh nhân; trong khi đó, nếu trong điều kiện lý tưởng của giải pháp thứ 2 thì mỗi năm có khoảng 18 triệu người HMTN với nguồn kinh phí cũng gần như trên. Tuy nhiên vấn đề không đơn giản như vậy.
Trước hết, giải pháp HMBB trái với khoản 1, Điều 5 của dự án Luật về Máu và Tế bào gốc: Nghiêm cấm hành vi “ép buộc hoặc cản trở người khác hiến máu hoặc tế bào gốc”.
Thứ hai, không phải lúc nào bệnh nhân cũng cần đồng đều các nhóm máu A, B, AB và O. Thực tế ghi nhận, thường các nhóm máu B và AB thừa nhưng lại thiếu nhóm máu A và O. Như vậy, khi “cào bằng” số người HMBB sẽ gây ra tình trạng lãng phí máu: Chỗ thừa nơi thiếu.
Là người đã từng HMTN và từng vận động HMTN, tôi thiên về giải pháp thứ hai của dự án luật: Qui định việc hiến máu là tự nguyện kết hợp với tăng chi cho hoạt động vận động HMTN.
Trước hết, theo truyến thống đạo đức của dân tộc, thương người như thể thương thân, nếu được vận động một cách tích cực, thiết thực có bài bản thì số người HMTN sẽ tăng lên. Kinh nghiệm cho thấy trong công tác vận động rất cần những cộng tác viên có cơ sở khoa học và lý luận về hiến máu và hậu hiến máu cũng như người vận động phải là “người thật việc thật” sẽ thuyết phục được người tự nguyện hiến máu. Người sắp sửa hiến máu sẽ an tâm và phấn khởi hơn khi thấy được người đã từng hiến máu sống vui, sống khỏe.
Thứ hai, việc áp dụng mô hình HMBB ở một số quốc gia khác vào nước ta là không khả thi vì truyền thống đạo đức, văn hóa, giáo dục, luật pháp và hoàn cảnh về chính trị, kinh tế… không giống nhau.
Thứ ba, thường thì những người hiến máu lần đầu tiên khi nhìn thấy những y cụ chuyên dụng HMTN đã muốn phát hoảng rồi, nên cách ứng xử văn minh, lịch sự, ân cần như đôi môi luôn nở nụ cười, những đôi mắt hiền dịu… của nhân viên y tế làm công tác vận động HMTN dễ dàng hơn.
Những người cho máu là những ân nhân của cuộc đời “một giọt máu cho đi, một cuộc đời ở lại”, người cho máu không cần biết máu mình sẽ cứu sống ai, nên không cần ai đó phải nói lời biết ơn. Nhưng những người làm công tác vận động HMNĐ phải có trách nhiệm thay mặt những người nhận máu cám ơn những vị ân nhân này bằng thái độ, cử chỉ và hành động sao cho vui lòng họ. Làm được như thế công tác vận động HMTN thực sự đạt kết quả tốt đẹp và đây là động lực làm cho ngày càng có nhiều người hiến máu.
Thứ tư, thực tế cho thấy, những người khi đã HMTN một lần thì thường có khuynh hướng hiến máu tiếp theo nhiều lần. Đó là lý do tại sao rất đông những người có bề dày HMTN hàng mấy mươi lần mà vẫn muốn tiếp tục hiến máu.
Thứ năm, hiện tại xã hội không thiếu người hiến máu bao gồm nhiều đối tượng như: Người bán máu chuyên nghiệp, tất nhiên những đối tượng này không được khuyến khích và từng bước hạn chế họ đến mức thấp nhất; Người nhà cho máu nhau; người cho máu tự thân và người HMTN.
Dù sao thì đại diện Bộ Y tế cũng đã khẳng định không có chuyện "bắt buộc công dân hiến máu mỗi năm một lần", đây chỉ là phương án đối chiếu khi đưa vào dự thảo Luật Máu và tế bào gốc. Vấn đề cốt lõi là Bộ Y tế phải chủ động, tích cực phối hợp cùng với Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đẩy mạnh phong trào HMTN trở nên rộng khắp từ trung ương tới địa phương, từ cơ quan, xí nghiệp, tổ chức, đoàn thể, từ nhà nước đến khu vực tư doanh; thường xuyên kiểm tra đánh giá, sơ kết tổng kết, khen thưởng… tất nhiên hiệu quả đạt được sẽ như mong muốn.