Ngày 30 tháng Chạp, người dân ĐBSCL sẽ làm một mâm cơm cúng tổ tiên, gọi là lễ “rước ông bà”. Cho đến khi hết Tết, khói hương trên bàn thờ gia tiên luôn được thắp và sau đó, đến ngày mùng 3 tháng Giêng thì làm lễ “đưa ông bà”.
Trước Giao thừa, các gia đình thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên cùng những người thân đã qua đời về ăn cơm, vui Tết với con cháu (cúng gia tiên). Lễ vật cúng Giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm còn có thêm quả dừa, bánh tráng, con gà trống luộc.
Bàn thờ của người dân ĐBSCL thường có mâm ngũ quả nhưng không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi” thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu”.
Mâm ngũ quả trên bàn thờ thường gồm các loại trái như mãng cầu, dừa, đu đủ, sung vì nó tượng trưng cho “Cầu vừa (dừa) đủ sung”. Nếu không tìm được sung thì có thể chưng xoài hoặc thơm (dứa-PV). Gần đây, quả Dư cũng được trang trí trên mâm ngũ quả với mong ước được dư dả, sung túc.
Ngoài ra, bàn thờ nhà nào cũng đều có cặp dưa hấu đỏ hoặc vàng. Dưa hấu lựa chưng tết là dưa hấu quả tròn, đẹp, hai quả phải cân xứng nhau.
Mâm cỗ Tết trên bàn thờ ở ĐBSCL thường có nhiều đồ nguội do thời tiết nắng nóng. Hầu như nhà nào cũng có ba món cơ bản là bánh tét, bánh tráng và nồi thịt kho tàu, dưa cải trong mấy ngày Tết. Trong suy nghĩ của người phương Nam, bánh tét tượng trưng cho sự ấm no từ đời này qua đời khác.
Đặc trưng trên bàn thờ của mỗi gia đình vùng ĐBSCL là người dân luôn dâng cúng món bánh tét lá cẩm tím. Đây là loại bánh vừa thơm ngon lại vừa thẩm mỹ vì chỉ dành riêng cho những dịp lễ quan trọng của năm mà không nơi nào có được.