Những ngày tháng lang thang ở xứ sở sương mù Ireland, trong ký ức tôi tưởng chừng đã trôi phai theo thời gian bỗng chốc ào ạt trở về cùng với thư của bà Maeve Collins - Đại sứ nước Cộng hòa Ireland - mời dự cuộc triển lãm về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn James Joye tại Đà Nẵng.
James Joye, bóng dáng lớn trên văn đàn thế giới thế kỷ XX, người cùng quê với bốn nhà văn, thơ và kịch đoạt giải Nobel Văn học: William Butler Yeats, G.Bernard Shaw, Samuel B.Beckett và Seamus Heaney. Đời văn của họ cùng khởi nguồn từ vùng đất mênh mông núi đồi và cỏ hoa trên những quần đảo lãng mạn bên bờ Atlantic.
Văn của nhà văn lãng tử James Joye như đường dẫn tới loại bia mang tên Guinnesse mà người dân Ireland ví von “Vị thuốc của thiên đường”. Vì vậy, 65 năm sau, tính từ ngày James Joye mất, khi vừa đặt chân lên thành phố Dublin, tôi đã vội vã đi tìm “Vị thuốc thiên đường” ấy.
Nhiều quán rượu, nhà hàng ở Dublin đều mang tên các nhà văn lớn. Tại mỗi nơi đó ta có thể xem phim ảnh, sách báo về cuộc đời và sự nghiệp của mỗi tác giả. Chỗ tôi ngồi đầu tiên là góc sân đẹp, bàn ghế bằng gỗ sồi bình dị và tinh sạch bên cạnh bức tượng James Joye trong bộ vét ghi-lê kiểu Châu Âu, mũ nỉ ngang tàng đội lệch, tay cầm chiếc gậy mảnh, người dân Ireland thường gọi “Cây gậy châm chích” của nhà văn có khuôn mặt thông thái, hóm hỉnh và ý nhị. Quán mang tên bức tượng ấy.
Ánh sáng trời khoảng tám, chín giờ tối y hệt hoàng hôn ở xứ mình. Bầu trời không hoàn toàn tối hẳn nhưng ở phố O’Connell càng lúc càng thưa dần. Trời trở lạnh hơn, 10 hay 12 độ C thì phải. Tôi rời sân bước vào trong quán. Quán đông vui và ấm cúng. Bây giờ tôi mới thực sự hiểu ra người dân Ireland có rất nhiều giai thoại trái ngược trong lối sống: Sự hà tiện và ăn nhậu. Cẩn thận khi tiêu tiền nhưng hết mình và sòng phẳng khi nhậu. Hết phiên bạn mời đến phiên mình. Cứ thế, hết “pint” (vại) này đến pint kia. Trên quầy bia có một phụ nữ, tóc nâu vàng, da trắng mịn, luôn luôn im lặng với nụ cười mỉm thấp thoáng, bỗng chốc và hững hờ.
Dù nhiều quán bia ở Dublin đều có bán đủ loại nhãn mác thức uống có men nhưng người bản xứ vào quán thường chọn thứ bia chế biến từ bao đời của dòng tộc ông Arthur Guinnese. Bọt bia đậm đặc phảng phất màu vàng hổ phách. Hương bia nhẹ và thơm. Trong ngọt ngào êm dịu khác lạ của men bia chen lẫn vị đắng quyến rũ đến những ly bia sau.
Những ly bia kế tiếp xúi giục người uống quyến luyến thêm bởi điệu đàn Banjo, tiếng nhịp vỗ trống và giọng hát nữ của một nhóm nhạc nào đó trong quán vừa bắt đầu - “The wild Irish rovers” - ca khúc đồng dao về núi đồi, làng mạc của những người con xa tít miền Tây Âu sương mù mang linh hồn lang bạt. Đường phố vào những lúc này quạnh vắng là phải vì tôi có cảm tưởng như, đêm đêm, đa số người dân Ireland tụ tập ở quán, từ cô gái 18 đến ông lão 78. Sau một vài ly bia, họ bắt đầu nhảy múa làm không khí quán rộn ràng, tình thân.
Những ngày tháng sau, rời khỏi Dublin, tôi đi đến nhiều nơi khác của xứ sở lãng mạn thú vị này. Về Vương quốc Kerry, quần đảo Dingle và xem những lễ hội dân gian ở Galway…Đâu đâu tôi cũng gặp hoa và bia. Cũng gặp thêm một vài quán xá, câu lạc bộ mang tên các nhà văn Samuel Beckett, Bernard Shaw…Cũng thứ bia đen thơm nồng và ngọt ngào ấy. Cũng điệu trống vỗ nhịp theo điệu đàn xao xuyến Banjo của những người chơi nhạc lang bạt, giang hồ, với lối trình diễn tự nhiên, thân mật, dễ gần. Xui tôi có nhiều khi chạnh nhớ về quê xứ mình và mong ước sao sẽ đến lúc ở những góc quán, hội hè, những người tìm đến nơi đây có thể gặp được đôi phần về chân dung, đời sống và sự nghiệp của các bậc anh tài xứ sở.
Ngày này qua ngày khác, vừa đi vừa vẽ. Đến Vương quốc Kerry, nơi có những đồi cỏ xanh ươm nối nhau, kéo dài ngút mắt. Men theo các triền núi sát mặt biển, tiếng chim hải âu gọi nhau ầm ĩ át cả tiếng rì rào sóng biển Slea Head, ở Dingle peninsula. Thỉnh thoảng gặp căn nhà cổ, tường đá, nhỏ nhoi, mang bóng dáng quá khứ truyền thống đất nước Ireland, im lìm, cô quạnh bên góc rừng thưa.
Hết vẽ tôi tìm đến quán và đôi mắt xanh biếc trời Tây lấp lánh dưới mái tóc vàng óng ả của thiếu phụ đơn chiếc trong một thị trấn, đêm đêm ngồi cùng tôi hàn huyên trong quán ấm. Nhưng, có lẽ cũng như mọi kẻ lãng du khác, khi đã quen cảnh, quen người, khi thấy lòng mình đã chớm bịn rịn nơi chốn xa xôi nào đó thì cũng vừa đến lúc phải trở về.