Nhiễm HP - một trong các nhiễm khuẩn thường gặp ở người
Sau đó 1 tuần, chị C. tái khám. Tuy nhiên, những triệu chứng vẫn như cũ, không thuyên giảm. Người bệnh được cho chỉ định nội soi dạ dày, PY test, xét nghiệm HP huyết thanh (CIM và IgG). Kết quả cho thấy người bệnh vẫn viêm dạ dày, HP dương tính. Mẫu thử HP được làm kháng sinh đồ và phát hiện là kháng thuốc. Theo khai thác bệnh sử, bác sĩ dự đoán nguyên nhân có thể do việc người bệnh quá lạm dụng sử dụng kháng sinh trong điều trị các bệnh thông thường như viêm họng, cảm cúm,… hoặc có thể do chính con vi khuẩn HP kháng thuốc ở người bệnh trong lần điều trị đầu tiên.
Nhiễm HP là một trong các nhiễm khuẩn thường gặp ở người. Ước tính tại Việt Nam có khoảng hơn 70% người trưởng thành bị nhiễm HP. Đây được xem là nguyên nhân chính gây viêm, loét dạ dày - tá tràng và ung thư dạ dày. Cụ thể là 90% số người bị viêm dạ dày có sự hiện diện của vi khuẩn HP. Tương tự, tỉ lệ này chiếm từ 75 - 85% trong bệnh loét dạ dày - tá tràng; còn trong biến chứng thủng do loét dạ dày tá tràng thì sự hiện diện của HP chiếm từ 80 - 95% trường hợp. Chính vì vậy, việc điều trị diệt HP khi bị viêm, loét dạ dày tá tràng là rất cần thiết nhằm ngăn ngừa các biến chứng như xuất huyết tiêu hóa, thủng dạ dày và nguy hiểm hơn là ung thư dạ dày.
Từ khi phát hiện vi khuẩn này, các phác đồ điều trị được xây dựng tập trung để diệt vi khuẩn HP. Vi khuẩn sống trong dạ dày thích nghi với môi trường nên kháng sinh rất khó phát huy tác dụng. Kháng sinh khi uống vào gặp môi trường axít trong dạ dày thì thuốc sẽ bị hủy và giảm tác dụng. Chính vì vậy, phác đồ điều trị vi khuẩn HP ít nhất phải phối hợp với hai loại kháng sinh, kết hợp thêm thuốc giảm tiết axít mạnh (thuốc ức chế bơm proton). Thuốc này giúp giảm axít trong dạ dày giúp cho kháng sinh uống vào tăng tác dụng tốt nhất.
Kháng thuốc của vi khuẩn HP
Phác đồ đầu tiên và hiệu quả là phác đồ bộ ba: PPI, Amoxicilin, Clarithromycin kết hợp thêm với Omeprazol. Thời gian đầu hiệu quả điều trị đạt trên 80 - 90%. Sau 30 năm, đến nay phác đồ này có khuynh hướng bị giảm tác dụng. Năm 2010, theo nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM thì tỉ lệ điều trị thành công của phác đồ bộ 3 chỉ còn 62%. Theo nghiên cứu, tỉ lệ kháng thuốc gia tăng, người bệnh đã chữa lần đầu tiên nhưng bị thất bại thì tỉ lệ kháng thuốc Clarithromycin lên tới 67%, Metronidazol tỉ lệ kháng là 55%, Levofloxacin là loại thuốc thế hệ mới có tỉ lệ kháng là 16%, Amoxicilin tỉ lệ kháng dưới 10% .
Tình hình kháng thuốc tùy theo từng quốc gia. Ở các nước như Mỹ, châu Âu, tỉ lệ kháng của Clarithromycin rất thấp, do vậy các nước đó vẫn khuyến cáo sử dụng thuốc này, nhưng vùng Đông Nam Á mà đặc biệt là Việt Nam, tỉ lệ kháng thuốc này cao là do việc lạm dụng, sử dụng tùy tiện kháng sinh.
Hiện nay, việc điều trị diệt HP trong bệnh viêm, loét dạ dày - tá tràng đang đối mặt với nhiều thách thức mà nguy cơ thất bại rất cao do nhiều nguyên nhân như: Người bệnh không tuân thủ đúng liều lượng, thời gian và cách uống thuốc do sợ tác dụng phụ của kháng sinh, hoặc sợ phải uống số lượng thuốc quá nhiều; Vi khuẩn HP đề kháng với các kháng sinh đang sử dụng do việc lạm dụng và sử dụng tùy tiện kháng sinh và axít trong dạ dày quá nhiều làm cho kháng sinh bị phá hủy hoặc mất tác dụng hoặc do chuyển hóa ở gan làm cho các thuốc ức chế tiết axít bị giảm tác dụng.
Tùy theo từng đối tượng, nếu người trẻ bị đau dạ dày thì không cần thiết phải nội soi ngay mà có thể dùng những biện pháp đơn giản như thử máu, kiểm tra hơi thở để chẩn đoán có bị nhiễm HP hay không, còn đối với những người bệnh lớn tuổi hoặc đã đau dạ dày lâu ngày, đau nhiều thì cần tầm soát bằng nội soi.
Phương pháp để chẩn đoán việc kháng thuốc của vi khuẩn HP là nội soi dạ dày, lấy vi khuẩn làm kháng sinh đồ. Sau đó, bác sĩ sẽ kiểm tra vi khuẩn phù hợp với loại thuốc nào để đưa ra phác đồ điều trị thích hợp, không kéo dài thời gian điều trị của người bệnh.
Nếu bị nhiễm HP mà không chữa trị, quá trình chữa trị không đúng phác đồ hoặc không chữa trị có thể dẫn đến ung thư. Tuy nhiên, không phải người bệnh nào nhiễm vi khuẩn HP đều sẽ bị ung thư. Điều này còn phụ thuộc vào cơ địa của từng người, độc tính của vi khuẩn và chế độ ăn uống. Chế độ ăn như ăn mặn, thực phẩm lên men, muối chua, thịt hun khói làm cho thực phẩm bị biến chất gặp điều kiện vi khuẩn HP thì dễ phát sinh ung thư hơn. Chính vì vậy, chế độ ăn cho người bị nhiễm HP cần tránh đồ chua cay, tránh ăn mặn, nên dùng củ nghệ vì có tính chất bảo vệ chống ung thư, làm lành những tổn thương trong viêm loét bao tử. Cộng đồng cần lưu ý, vi khuẩn HP có thể bị lây nhiễm qua đường ăn uống.
PGS.TS.BS Bùi Hữu Hoàng (Trưởng khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM)
Xem thêm