Chúc mừng bà vừa lọt vào danh sách 100 nhà khoa học tiêu biểu Châu Á năm 2019. Khi đón tin vui này, điều gì bà nghĩ đến đầu tiên?
Vì việc bình chọn không được biết trước, nên khi biết tin tôi rất bất ngờ. Cùng với đó là niềm tự hào, vì trong danh sách có rất nhiều nhà khoa học có tên tuổi và có nhiều cống hiến. Điều đó chứng tỏ những nghiên cứu của tôi đã được quốc tế ghi nhận.
Theo bà, để trở thành một nhà nghiên cứu khoa học, đòi hỏi những tố chất gì?
Theo tôi, điều đầu tiên cũng là yếu tố quan trọng nhất để trở thành một nhà khoa học chính là đam mê. Nghiên cứu khoa học là hành trình gian nan, nếu không có đam mê sẽ rất dễ nản mà bỏ ngang.
Điều tiếp theo là kiên định với “lý tưởng” ban đầu. Bởi trong quá trình nghiên cứu sẽ có những lời mời từ doanh nghiệp với mức lương hấp dẫn. Nếu mỗi người không kiên định, sẽ có sự so sánh về thu nhập mà không theo đuổi đến cùng con đường nghiên cứu.
Thứ ba, để làm được nghiên cứu khoa học, bản thân mỗi nhà khoa học phải nghĩ đến chuyện cống hiến, tức là cho đi nhiều hơn nhận lại. Trên thực tế, có rất nhiều nghiên cứu không được đưa vào sử dụng trong hiện tại, mà nó có giá trị cho thế hệ sau thừa hưởng. Chỉ khi mang tâm thế cho đi, thì mới đầu tư hết “chất xám” vào công trình nghiên cứu đó.
Qua lời bà nói, tôi hình dung công việc nghiên cứu khoa học thực sự vất vả. Có phải một phần vì điều kiện nghiên cứu khoa học ở Việt Nam còn khó khăn?
Ban đầu bắt tay vào việc, tôi cũng gặp nhiều khó khăn. Việc các nhà khoa học cần làm là cố gắng đồng lòng, xây dựng một nhóm nghiên cứu có chất lượng. Đồng thời, không được đi theo lối mòn, phải cố gắng tìm ra những điều mới.
Đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều nhà khoa học trên thế giới, tôi nhận thấy ở các nước phát triển, việc nghiên cứu sẽ khó hơn nhiều so với những nước đang phát triển như Việt Nam. Nguyên nhân là do những nước phát triển đã đạt được rất nhiều thành tựu trong nghiên cứu, nên việc để một công trình mới được công nhận đòi hỏi ở các nhà khoa học rất cao.
Tuy vậy, tôi cũng có mong muốn để các công trình khoa học của mình ứng dụng vào thực tế cuộc sống chứ không chỉ nằm trên giấy. Để được như vậy, Nhà nước, các đơn vị quan tâm hơn, có một đường lối rõ ràng cho các nhà khoa học, đặc biệt những người nghiên cứu về lĩnh vực y tế như tôi để dễ dàng đưa sản phẩm ra thị trường.
Việc nghiên cứu đòi hỏi rất nhiều thời gian và tâm huyết, một phụ nữ như bà gặp những rào cản gì?
Theo tôi, làm nghiên cứu khoa học không phân biệt giới tính. Với bất cứ ngành nghề nào, người phụ nữ cũng gặp những hạn chế hơn nam giới, nhưng đây không phải là rào cản. Trên thế giới cũng có rất nhiều nhà khoa học nữ thành công.
Tôi may mắn được gia đình hết sức ủng hộ trong việc làm nghiên cứu khoa học, nên 2 tháng sau sinh tôi đã quay trở lại làm việc.
Tôi cho là mình cũng “gan” khi phá đi những nguyên tắc truyền thống. Nhưng 6 tháng sau sinh mới đi làm lại tôi cảm thấy quá dài.
Chính 6 tháng đó sẽ khiến tôi xa dần công việc và mất đi nhiệt huyết ban đầu. Khi quay trở lại, phải mày mò tìm hiểu lại từ đầu khiến cho những người làm nghiên cứu như tôi rất dễ nản chí mà bỏ ngang.
Chính vì thế, khi đảm bảo được sức khỏe và được gia đình ủng hộ, tôi đã đi làm sớm. Việc quay lại công việc nhanh giúp tinh thần tôi phấn chấn hơn và giữ được lửa nghề.
TS Nguyễn Thị Hiệp sinh năm 1981, tốt nghiệp cử nhân hóa học tại Trường ĐH Khoa học tự nhiên - ĐH Quốc gia TPHCM, nhận bằng thạc sĩ và tiến sĩ tại Trường ĐH Soonchunhyang (Hàn Quốc).
Tháng 6.2019, nhà khoa học này đã đoạt giải nhất Giải thưởng sáng tạo TPHCM với công trình Keo thông minh trong điều trị lành thương thuộc lĩnh vực 7 (khoa học cơ bản).
Trước đó, chị cũng nhận được Giải thưởng tài năng trẻ quốc tế L'Oréal - UNESCO 2018 vì đã phát triển một loại gel nano thông minh có thể đẩy nhanh quá trình tái tạo mô.