Oan sai do bức cung, nhục hình
Từ phương pháp điều tra của một số cơ quan cảnh sát điều tra là “truy xét” mà “chứng cứ thiếu vững chắc” dẫn đến không ít những vụ án oan: Vụ Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang án chung thân, ngồi tù oan đến 10 năm về tội “Giết người” do bị cán bộ điều tra bức cung và cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án; Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận phải ngồi tù hơn 17 năm về tội “Giết người”, nay phải bị hủy để làm lại từ đầu vì có dấu hiệu là vụ án oan do bị bức cung, nhục hình; Vụ Nguyễn Văn Chưởng bị tuyên mức án tử hình mà theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Văn Hiện thì vụ án đã có quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao, là quyết định cuối cùng nên giờ có… thấy sai cũng không thể kháng nghị được; Vụ 7 công dân lương thiện ở Sóc Trăng bị truy tố về tội giết người một cách oan uổng cũng từ phương pháp “truy xét” của các cán bộ điều tra; Vụ án Hàn Đức Long ở Bắc Giang bị 4 lần tuyên án tử hình nhưng đến nay phải điều tra xét xử lại do có dấu hiệu là một vụ án oan…
Nhưng những vụ án ấy chỉ là những con số được báo chí liên tục đấu tranh bằng công luận cho những số phận oan khiên của những người dân lương thiện vô tình vướng phải vòng lao lý mà họ biết được.
Nguồn cơn... từ phương pháp truy xét
Vậy, phương pháp “truy xét” là gì mà ghê gớm vậy?
Phải nhìn thẳng vào sự thật rằng, phương pháp “truy xét” nếu không nhờ vào “phương pháp” bức cung, nhục hình, dụ cung, mớm cung… thì không thể có được những bản khai, những hình ảnh thực nghiệm hiện trường như những diễn viên sắm tuồng trước ống kính để tái hiện những hành vi phạm tội một cách “thuần thục” đến như vậy. Còn các chứng cứ thì được thay thế bằng việc chọn lấy những vật cùng loại ở ngoài chợ hoặc ở đâu đó để đưa vào danh mục tang vật kèm theo hồ sơ vụ án.
Phương pháp “truy xét” đó chính là nguồn cơn để tạo ra những bản án oan lên số phận những công dân vô tội mà lẽ ra họ phải được pháp luật bảo vệ.
Nói rằng phương pháp “truy xét” kèm theo việc nhục hình nghi can thì điều đó là có thật hay không, thì lời trình bày của những Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, của 7 thanh niên ở Sóc Trăng, Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận… đã nói lên điều đó.
Quyền im lặng dựa hoàn toàn vào công ước quốc tế mà VN đã tham gia
Chính vì vậy, Dự luật Tố tụng hình sự lần này đứng trước sức ép phải loại trừ phương pháp “truy xét” trong quá trình lấy lời khai người bị tố giác, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bằng những quy định mang tính nhân văn của nhân loại là: “Tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” theo các điều từ Điều 39 đến Điều 43.
Quy định đó hiện nay đang có nhiều tranh cãi rằng, đó là “quyền im lặng” hay chỉ đơn giản chỉ là quyền “tự do trình bày lời khai”. Giả định người bị buộc phải khai nhận hành vi nghi là phạm tội, nhưng họ thực hiện quyền tự do “trình bày” hoặc “không trình bày” lời khai thì có khác nào “quyền im lặng” hoặc “quyền không im lặng”. Chỉ còn lại, họ chỉ trình bày lời khai vào thời điểm vào lúc nào mà họ mong muốn thì sẽ tùy thuộc vào quyết định của họ. Có thể là họ chỉ trình bày khi có mặt luật sư của họ hoặc khi nào mà họ cho là thích hợp chứ không nhất thiết chỉ khi có mặt luật sư.
Nội dung quyền này hoàn toàn dựa theo Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà VN ký kết gia nhập vào ngày 24.9.1982, trong bản Công ước đó quy định tại điểm g, khoản 3, Điều 14 rằng: Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây: “Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội”.
Như vậy, nếu một công dân Việt Nam phạm tội ở một quốc gia có ký kết vào Công ước này, thì công dân Việt Nam ấy được quyền im lặng. Ngược lại, không chỉ công dân VN mà ngay cả công dân nước ngoài khi phạm tội ở Việt Nam thì cũng phải được hưởng quy chế quyền con người trong quy trình tố tụng như thế.
Báo Lao Động trân trọng mời các chuyên gia, các luật sư và bạn đọc tâm huyết diễn đàn này gửi bài, ý kiến về địa chỉ: bandoclaodong@gmail.com.