TS Cấn Văn Lực:
Từ trước đến nay việc xử lý nợ xấu bị “tắc” ở xử lý tài sản đảm bảo. Nghị quyết nếu được Quốc hội thông qua sẽ góp phần tháo gỡ một số vấn đề quan trọng trong xử lý nợ xấu, tạo ra hành lang pháp lý để tháo gỡ vướng mắc liên quan tới tài sản đảm bảo như đấu giá, chi phí thi hành án, miễn phí thuế, phối hợp các bộ ngành, quyền định đoạt tài sản đảm bảo. “Tuy nhiên, điều mà tôi quan tâm là cơ chế xử lý khoản lỗ, lãi khi bán nợ xấu và định giá tài sản đảm bảo như thế nào. Việc mua bán nợ xấu theo giá thị trường thì sẽ có lỗ, có lãi. Vậy ngân sách sẽ bù tiền vào khoản lỗ đó hay các ngân hàng sẽ trích lập dự phòng? Điều này chưa được đề cập tới trong Dự thảo Nghị quyết”.
Luật sư - TS Bùi Quang Tín (Trường Đại học Ngân hàng TPHCM) nhận định:
“Nếu nợ xấu không xử lý được thì mục tiêu giảm lãi suất ngân hàng khó lòng thực hiện được”. Lý giải cho nhận định trên, TS Bùi Quang Tín cho rằng “Khi nợ xấu còn thì chi phí sẽ tăng. Chi phí cho vay bao gồm chi phí huy động vốn và các chi phí khác. Trong chi phí khác phải tính đến chi phí phải lo trả phần LS huy động vốn cho khoản cho vay có phát sinh nợ xấu. Vì vậy, nếu còn nợ xấu, các NH khó mà giảm được lãi suất cho vay dù lãi suất huy động có giảm.
Nếu “cục máu đông” chưa được xử lý thì các NH sẽ vẫn phải trích lập dự phòng theo Thông tư 02 và Thông tư 09. Khi trích lập dự phòng rủi ro sẽ bào mòn lợi nhuận chịu thuế, điều đó đồng nghĩa với việc phần thu thuế của Nhà nước sẽ giảm. Các NHTM sẽ vẫn ghi nhận phần lãi dự thu mà thực tế chưa hề thu được và vẫn phải trả lãi huy động vốn cho phần đó”.
Nghị quyết lần này đã gỡ được rất nhiều nút thắt hiện nay trong việc xử lý nợ xấu. Thứ nhất, lần đầu tiên có một văn bản pháp luật quy định về đối tượng áp dụng khi xử lý nợ xấu là tổ chức. Thứ hai, có cơ chế để chuyển từ trái phiếu đặc biệt sang theo giá thị trường do NHNN đưa ra cách thức. Thứ ba, về quyền thu giữ tài sản đảm bảo, nhiều nút thắt trong luật đất đai hiện hành đã được xử lý. Cụ thể, bên có tài sản phải có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo đầy đủ giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho TCTD, chi nhánh NH nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu để xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm và quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Thêm vào đó, nghị quyết mới đảm bảo cho quyền thu giữ tài sản đảm bảo của các TCTD. Điều này giúp các TCTD rút ngắn thời giam thu hồi nợ, giảm thiểu tình trạng “đứng cho vay, quỳ đòi nợ”, mặc cho tòa có ra phán quyết, con nợ cứ tiếp tục trây ỳ không chịu bàn giao tài sản đảm bảo.
Thay vì trước đây “quanh quẩn” VAMC, DATC và các AMC thì hiện nay đối tượng tham gia được mở rộng. Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được bán nợ xấu cho các pháp nhân, cá nhân bao gồm cả các pháp nhân, cá nhân không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ theo giá trị thị trường theo quy định của pháp luật, kể cả bán với giá thấp hơn giá trị ghi sổ của khoản nợ.
Một điểm đáng chú ý là dự thảo mở ra hướng hỗ trợ, cho phép phân bổ số lãi dự thu đã ghi nhận của các khoản nợ xấu và tài sản tồn đọng của tổ chức tín dụng chưa thoái theo quy định giãn ra trong lộ trình không quá 10 năm.
TS Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia
Xử lý nợ xấu càng chậm tổn thất nền kinh tế càng không thể đo đếm được. Xử lý nợ xấu của các TCTD hiện tại đang gặp nhiều vướng mắc lớn. Thứ nhất là vấn đề lãi dự thu. Thứ hai là xử lý tài sản đảm bảo. Thứ ba là quyền của chủ nợ đang bị yếu thế.
Việc cho phép NH xử lý dần lãi dự thu tác động mạnh đến xử lý nợ xấu. Ví dụ, tài sản trước đây thế chấp vay NH hơn 100 tỉ, nhưng giờ nếu bán đi theo giá thị trường hiện tại chỉ thu về 40 tỉ, lỗ 60 tỉ đồng. Nếu bán tài sản này, NH đó lỗ ngay vài chục tỉ đồng. Lãi dự thu giảm chuyển thành nợ xấu. Với một NH kinh doanh cả năm chỉ lãi vài chục tỉ thì chỉ cần xử lý một tài sản như vậy coi như lỗ luôn, buộc họ phải tiếp tục hạch toán lãi.
Quy định như vậy có tác động mạnh đến hạch toán làm cho NH mạnh dạn xử lý nợ xấu. Tình trạng lãi giả lỗ thật cũng biến mất, đưa họ về thực tế. Đồng thời hạn chế thất thoát cho NH.