Ông nặng 90 cân với bà chỉ 35 ký có chung tiêu chuẩn gạo 13 cân một tháng nếu là lao động gián tiếp. Nhưng lại rất hiếm khi ông 90 cân cưới bà 35 cân nên chẳng thể bù trì. Những ông to xác thường là bị đói. Đã có ông đến cơ quan dặn các đồng nghiệp của mình rằng, nếu đang làm việc mà thấy tôi cứ xỉu dần đi thì đừng gọi xe cấp cứu. Tốt nhất cứ mua tôi bát cháo!
Thiếu gạo nên nhà nước có chính sách quản lý rất chặt chẽ. Không thể mang gạo ra nấu thành cơm mà đem bán ở chợ. Hàng cơm mậu dịch vào ăn phải trả bằng tem gạo 225gram. Bún phải dùng gạo để đổi, tuyệt đối không bán. Bánh phở, bánh cuốn làm chui pha phách thêm bột sắn ngang phè dính răng. Nấu rượu bằng gạo là tù như bỡn. Và bữa cơm gia đình là lựa chọn thiêng liêng duy nhất.
Ở Hà Nội, gia đình công chức sống trong nhà tập thể trải chiếc chiếu cũ xuống sàn nhà quây quần bên chiếc mâm không bao giờ có quá ba món kể cả nước mắm dầm sấu chấm rau luộc. Hôm nào có bốn món tức là có đến hai món “bi”. Bi lớn là cà pháo muối chua. Bi bé là lạc rang nước muối mặn chát. Ngã xe đạp đổ cặp lồng cơm trưa ngoài đường cũng thường xuyên thấy bi lớn bi bé ùa ra lăn lóc.
Cơm nhà Hà Nội ngày ấy đầm ấm và trang nghiêm nhất trong lịch sử ẩm thực. Phải chờ cho đủ tất cả mọi người. Trước khi bưng bát mời mọc râm ran. Nhường cho trẻ con và người già những gì ngon nhất có trong mâm. Ăn xong trẻ bé lấy tăm đưa cho ông bà bố mẹ bằng hai tay. Trẻ lớn hơn rửa chậu bát nhẹ tênh không mỡ màng. Hóa ra nghèo đói sinh lễ nghĩa chứ không phải phú quý.
Thị dân thành phố lớn bây giờ may lắm còn giữ được bữa chiều sum họp. Bữa trưa cơm hàng cháo chợ là chính. Bữa cơm chiều lèn chặt một mâm không phải vì quá sung túc. Chỉ là tinh thần dân chủ ẩm thực đã được nâng lên hết tầm của nó. Thằng cháu bảy tuổi mình nó ba món. Pa tê, mayonaise và trứng luộc. Hai hàm răng trắng bóng của cu cậu không chịu nhai những gì cứng hơn trứng luộc.
Bà và mẹ nó ăn kiêng mỗi người một cách. Bà cơm gạo lức muối vừng đen trệu trạo theo sách ăn kiêng xin của các bạn tổ hưu. Mẹ nó ăn rau sống và đầu cá nấu chua. Ông và bố nó nhấm nháp chén rượu ngâm chuối hột phòng bệnh sỏi thận, tiểu đường. Con vịt gầy luộc kỹ đưa cay. Nước luộc và cổ cánh nấu khoai sọ. Cơm mỗi người một bát. Một tháng cả nhà không ăn hết chục cân gạo. Lọ tăm để sẵn trên bàn ăn không ai phải lấy ra mời. Đó là những bữa chiều không thường xuyên. Dĩ nhiên ăn uống kiểu ấy ít khi chuyện trò. Bởi những món mà mình ăn chẳng biết chia sẻ với ai. Cũng không nỡ trách ai về tay nghề nầu nướng.
“Cơm hàng cháo chợ vợ ba xu” là thành ngữ dân gian cũ chỉ những người lao động chân tay nghèo khổ sống lắt lay trong thành phố. Giờ thì thị dân công chức cũng quay lại thường xuyên “cơm hàng cháo chợ” rồi. Chẳng biết “vợ…” thì bao nhiêu? 7.2013