Giở lại các quyển sử chính thống nước ta, như “Đại Việt sử ký toàn thư” chẳng hạn, mới thấy vai trò của cây cau quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt. Cau nhiều buồng và quả là biểu hiện phồn thực. Cau nhiều thân nhánh là điềm lành. Cây cau nhiều nhánh được coi là vật lạ ngang với chim phượng có lông 9 chòm ngũ sắc, ngựa trắng có cựa, voi trắng, hươu trắng, đều được coi là vật quý tiến Vua.
Cây cau và tục ăn trầu của nước Nam nổi tiếng đến nỗi mà sử sách còn ghi lại: Vào cuối thời Trần, năm Bính Dần (1386), Vua Minh nghe Nguyễn Tông Đạo nói hoa quả phương Nam có nhiều thứ ngon, bèn sai Lâm Bốt sang đòi giống các loại cây cau, vải, mít, nhãn. Vua Trần bèn sai Phạm Đình đem sang cống, nhưng những thứ cây đó không chịu được rét, đi nửa đường đều chết khô cả (Đại Việt sử ký toàn thư).
Cây cau không những gần gũi với dân gian mà còn là thứ cây được quý tộc thời Trần coi trọng. Kinh thành Thăng Long thời đó, có những vườn cau rộng rãi, thanh cao mà sử còn ghi lại: Vào năm 1320, Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ Vua ban ở vườn cau trong thành.
Trầu cau còn là một thứ cao sang. Thậm chí, mỗi khi các quan đón Xa giá của Vua Trần, đều dâng trầu cau. Sử cũ còn ghi sự kiện nghênh đón Vua Trần Thái Tông năm Đinh Dậu 1237 trong dịp dựng điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu, các quan đều dâng Vua trầu cau như thế. Miếng trầu còn thể hiện tình cảm của người dân đối với người anh hùng dân tộc Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống Minh: Năm 1425, Vua đem quân đến hương Đa Lôi, huyện Thổ Du, trấn Nghệ An, già trẻ tranh nhau đem trầu rượu đến đón và khao quân.
Miếng trầu còn là thứ quan lại trong triều đình ưa dùng phổ biến, đến nỗi mà vào năm Hồng Đức thứ tư (1473), Vua Lê phải ra hẳn một sắc chỉ ghi rõ là: Kể từ nay, các quan văn vào chầu, không được nhổ cốt trầu, ném bã trầu ở trước cửa và sân Đan Trì.
Có thể nói suốt một thời gian dài, trầu cau là thứ ẩm thực ưa dùng cho mọi lớp người từ bình dân đến quý tộc, vua quan. Nếu có khác chăng, chỉ là các công cụ chế biến và đồ đựng trầu cau. Nếu là đồ quan dụng, thì ắt phải là vàng, đúng như sử sách chép: Vào năm Kỷ Mùi (1619), Chúa Trịnh dâng mâm vàng trầu cau lên Vua Lê Thần Tông.
Cái sự khác nhau của thú ăn trầu giữa dân gian và Vua Chúa đúng là ở bộ đồ ăn trầu. Mới đây, chính cuộc trưng bày về văn hóa trầu cau tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã cho thấy điều đó.
Những dòng chính sử dường như được minh họa hết sức sống động bằng các cổ vật liên quan đến tục ăn trầu. Người xem được chiêm ngưỡng các đồ ăn trầu làm bằng vàng, pha lê và ngọc của triều Nguyễn. Đó là những đồ ngự dụng như: Cối giã trầu, ống nhổ chạm nổi hình rồng bằng vàng, ống đựng vôi bằng bạc, bộ cối giã trầu bằng vàng, bạc và ngọc kim sa.
Bên cạnh đồ ăn trầu phục vụ cung đình là các dụng cụ ăn trầu dân dã, phong phú về loại hình mà lại phóng khoáng hơn về nét nghệ thuật. Hàng loạt ông bình vôi của nhiều thời đại được trưng bày trong dịp này. Sớm nhất là bình vôi thời Lý, men xanh ngọc và quai được tạo hình bằng tượng một con tôm cong lưng, đôi càng dang rộng như ôm lấy cả phần thân bình hình cầu. Thật là một tác phẩm mỹ thuật tuyệt vời. Còn phải kể đến hàng loạt ông bình vôi đa sắc men của thời Lê Nguyễn và người thợ gốm thời xưa cũng khéo léo tạo tượng tròn kết hợp trang trí phần quai. Khi thì quai có hình buồng cau, khi thì hình con trâu nằm, hình nghê, hình rồng, phượng…
Có lẽ bình vôi là thứ dễ tạo hình trang trí nhất trong bộ đồ ăn trầu, vì thế người xưa cũng tập trung vào đó sự tài khéo của thợ làm đồ gốm. Còn phải kể đến dao gọt cau, đến ống nhổ, đến xà tích… là những vật dụng không thể thiếu được, cũng được trang trí và cũng có nhiều chất liệu khác nhau.
Cũng còn phải kể đến bộ đồ ăn trầu của các dân tộc ít người được đem trưng bày như của người Chăm, Khơ Me, Tày, Lô Lô, Vân Kiều, Mường, Thái… mang sắc thái độc đáo, phản ánh tính đa dạng trong tập tục ăn trầu ở ta.
Bên cạnh kho tàng dụng cụ ẩm thực ăn trầu được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, có lẽ cũng cần nhắc lại các lá trầu, quả cau còn tươi nguyên, màu xanh ngăn ngắt của gần 500 năm trước vẫn tồn tại cho đến ngày nay, trong các cuộc khai quật mộ xác ướp thời Lê. Trầu cau cũng là một trong những hành trang thân thiết nhất theo các vị Vua và các bà Hoàng đi về miền Tây Phương cực lạc.
Khi người Pháp đến Hà Nội vào thế kỷ 19, họ cũng quan sát và vẽ lại cảnh sinh hoạt của người Việt lúc đó, cũng không quên mô tả các công đoạn bổ cau, têm trầu và mời trầu hết sức lạ lẫm đối với họ. Đó là những hình khắc sinh động mà ông Henry Oger đã công bố trong sưu tập tranh của ông cách đây hơn một thế kỷ.
Có thể nói, tục ăn trầu đã đi cùng dân tộc hàng ngàn năm, đã trở thành một văn hóa và một bản sắc. Lá trầu, quả cau đã đi vào hồn cốt người Việt Nam. Chỉ mới gần đây, tục ăn trầu mới dần dần phai nhạt, nhưng lại lắng đọng trong biểu tượng trường tồn: Cuộc hôn nhân nào mà thiếu được quả cau và cơi trầu.