TAND thành phố Hà Nội đang lên kế hoạch xét xử vợ chồng Nguyễn Thị Nguyệt, Phạm Anh Tuấn (cùng ở quận Tây Hồ) và 11 bị can khác về tội "Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới".
Theo hồ sơ, năm 2016, thấy nhiều người có nhu cầu thuê chuyển tiền trái phép ra nước ngoài nên Nguyễn Thị Nguyệt mua hồ sơ tạm nhập, tái xuất của Phạm Hữu Thuật (41 tuổi, quê Quảng Ninh).
Sau đó, các bị can hợp thức hồ sơ dưới dạng xuất nhập khẩu hàng hóa để chuyển tiền thông qua 3 doanh nghiệp và 8 công ty "ma" do vợ chồng Nguyệt lập ra, cấu kết với một số nhân viên MB Bank, Sacombank chi nhánh Móng Cái (Quảng Ninh) để thực hiện các phi vụ chuyển tiền.
Để có hàng hóa, 2 bị can góp tiền mua linh kiện điện tử (IC) điều khiển từ Trung Quốc của một người tên A Vỹ rồi làm thủ tục tạm nhập qua cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh) để tái xuất sang Trung Quốc.
Viện Kiểm sát cáo buộc, từ năm 2016 đến năm 2020, sau khi hợp thức được các hồ sơ tạm nhập tái xuất, vợ chồng bị can Nguyệt cùng các đồng phạm đã nhiều lần vận chuyển trái phép tổng số tiền hơn 30.000 tỉ đồng ra nước ngoài. Qua đó, Nguyễn Thị Nguyệt thu lời bất chính gần 30,5 tỉ đồng.
Trong vụ án, cơ quan tố tụng xác định vai trò liên quan của 3 công chức hải quan tỉnh Lào Cai. Cụ thể, ông Trần Xuân Sang đã không giám sát hết việc chuyển tải hàng hóa liên quan bị can Nguyệt từ xe vận tải sang xe biên mậu. Còn Nguyễn Long Giang và Trịnh Ngọc Toàn không kiểm tra thực tế số kiện hàng do Nguyệt và đồng phạm mua bán để tái xuất sang Trung Quốc.
Quá trình điều tra, ông Giang thừa nhận có 2 lần được các bị can bồi dưỡng tổng số tiền một triệu đồng. Còn ông Toàn và Sang không hưởng lợi gì. Trong khi đó, bị can Nguyễn Văn Thắng (em ruột của Nguyệt) khai đã đưa tiền cho 3 công chức hải quan này.
Cơ quan tố tụng cho rằng tài liệu thu thập được không đủ căn cứ kết luận các ông Trần Xuân Sang, Nguyễn Long Giang và Trịnh Ngọc Toàn nhận tiền. Bên cạnh đó, nhóm công chức này không biết nhóm của Nguyệt vận chuyển tiền trái phép qua biên giới nên Công an Hà Nội không đề cập xử lý.
Ngoài các tình tiết nêu trên, bị can Nguyễn Văn Thắng còn khai đã phải chi 5 triệu đồng cho mỗi tờ khai nhập khẩu linh kiện điện tử từ Trung Quốc qua cửa khẩu sân bay Nội Bài. Tuy nhiên, một số cán bộ hải quan ở Nội Bài khai không hưởng lợi gì. Tài liệu điều tra không đủ căn cứ xác định các cán bộ này nhận tiền từ Nguyệt và Thắng nên Công an Hà Nội cũng không đề cập xử lý.
Quá trình điều tra ban đầu, vợ chồng Nguyễn Thị Nguyệt cùng em trai là Nguyễn Văn Thắng khi bị tạm giữ còn khai đã đưa tiền cho một số cán bộ Công an Hà Nội để không bị xử lý. Sau đó, Nguyệt khai lại là không có việc này và cũng không chứng minh được hành vi đưa tiền.
Ngoài ra, những cán bộ công an phủ nhận đã nhận tiền từ nhóm của Nguyệt. Tài liệu có trong hồ sơ vụ án không có căn cứ chứng minh các cán bộ công an nhận tiền từ vợ chồng Nguyệt. Do đó, Công an Hà Nội không đề cập xử lý.
Quá trình điều tra, cơ quan tố tụng còn làm rõ 10 cá nhân là chủ các doanh nghiệp, cửa hàng tại Hà Nội và TPHCM đã giao tiền cho Nguyễn Thị Nguyệt để chuyển trái phép qua biên giới.
Những cá nhân đưa tiền cho nhóm của Nguyệt gồm: Chủ doanh nghiệp tư nhân vàng bạc Thăng Long; chủ Công ty TNHH vàng bạc Lộc Phát; Giám đốc Công ty TNHH kinh doanh vàng bạc Minh Châu; chủ Công ty TNHH phát triển thương mại Tần Vĩnh Phát; chủ Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Phủ Văn Hưng (cùng ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội); chủ doanh nghiệp tư nhân kim hoàn Hùng Vỹ; Giám đốc Công ty TNHH thương mại sản xuất Khang Thạnh và Giám đốc Công ty TNHH Thao Kim Thanh (cùng ở TPHCM).
Tuy nhiên, tài liệu thu thập được chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với những cá nhân đã giao tiền cho các bị can. Do đó, Công an Hà Nội đã tách tài liệu vụ án liên quan 10 người giao tiền và những cá nhân có tiền chuyển ra nước ngoài để tiếp tục điều tra.
Ngoài ra, nhà chức trách xác định A Dương (ở Trung Quốc) và một số người rút tiền từ tài khoản 8 công ty do Nguyệt thành lập cũng liên quan vụ án nên tách hồ sơ để tiếp tục làm rõ.