Theo TS Dương Quốc Anh - Phó Viện trưởng Viện chiến lược phát triển kinh tế số, ngân hàng là ngành tiến hành số hoá mạnh mẽ nhất trong nền kinh tế và những nỗ lực này cũng đã được Chính phủ, người dân ghi nhận.
Đồng thời, chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng trên thế giới đang diễn ra theo 3 xu hướng chính. Thứ nhất, các ngân hàng truyền thống áp dụng công nghệ số để cải tiến các quy trình nghiệp vụ của mình. Thứ hai, các fintech, bigtech tham gia cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính. Thứ 3 là sự ra đời của các ngân hàng số hoàn toàn.
Tại Việt Nam, xu hướng mạnh nhất là các ngân hàng ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ số để số hóa các hoạt động của mình. Nhờ đó hiện nay, khách hàng đã có thể thực hiện hầu hết các hoạt động nghiệp vụ trên kênh số.
Dẫn số liệu của Ngân hàng Nhà nước, ông Dương Quốc Anh cho hay, hiện nay doanh thu của các ngân hàng trên kênh số đã đạt 30%; trong đó riêng dịch vụ thanh toán hầu hết đã được số hoá. Đặc biệt, khoảng 70% các món vay có giá trị nhỏ của các công ty tài chính đã được giải ngân trên kênh số hóa.
Về quy mô giao dịch, 5 năm vừa qua hệ thống ngân hàng đã có sự tiến bộ nổi bật. Trước đây trong 1 ngày chỉ có 50.000 giao dịch thanh toán qua ngân hàng nhưng hiện nay lên đến 8 triệu giao dịch/ngày, tương đương 40 tỉ USD.
Cùng với đó các ngân hàng và trung tâm thanh toán đã kết nối liên thông và thời gian giao dịch được tính bằng giây. Vì giao dịch tiến hành nhanh với chi phí thấp, nên hoạt động thanh toán hầu như miễn phí cho người dùng. Còn về ứng dụng công nghệ thì các ngân hàng Việt Nam đã áp dụng hầu hết công nghệ mà Hàn Quốc đã và đang áp dụng từ Big Data, AI, Cloud… thể hiện sự tiến bộ rất lớn.
Ngoài ra, không chỉ ngân hàng mà các công ty Fintech tham gia vào lĩnh vực này cũng phát triển rất nhanh. Hiện nay có tới trên 10 doanh nghiệp Fintech lớn cung cấp các dịch vụ liên quan tài chính tiền tệ.
Dù vậy, tiềm năng vẫn còn rất lớn bởi theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Nhà nước, có khoảng 72% Fintech Việt Nam hoạt động trên cơ sở phối hợp với ngân hàng; chỉ có 14% tạo ra các sản phẩm hoàn toàn mới và 14% có sản phẩm cạnh tranh với các ngân hàng. Cùng với đó, mô hình ngân hàng số hoàn toàn là chưa có.
Phải được tiến hành thận trọng
Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) nhận định, trong ngắn hạn bối cảnh Việt Nam rất khác so với các nước, không thể bê nguyên một mô hình nào để áp dụng. Chúng ta đang ở giai đoạn tái cơ cấu hoạt động ngân hàng đến năm 2025, trong đó có giải pháp nghiên cứu, rà soát các luật liên quan và nghiên cứu mô hình ngân hàng số.
“Trong ngắn hạn tôi nghĩ vẫn phải tạo thuận lợi cho ngân hàng truyền thống để số hoá các hoạt động nghiệp vụ” - ông Dũng chia sẻ.
Trong dài hạn, việc cấp phép ngân hàng số phải được tiến hành thận trọng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn của Việt Nam và xu hướng quốc tế, kết hợp rà soát các luật liên quan gắn với đề án tái cơ cấu hoạt động ngân hàng trong thời gian tới.
Khi thiết lập khuôn khổ này phải xác định 3 mục tiêu chính sách lớn: Thứ nhất, việc thành lập ngân hàng số phải phục vụ cho mục tiêu tài chính toàn diện. Hiện nay Việt Nam còn một nhóm người chưa có tài khoản ngân hàng, một nhóm khách hàng nhỏ và siêu nhỏ chưa tiếp cận tín dụng một cách đầy đủ và việc thành lập ngân hàng số phải bao phủ được nhóm đối tượng này.
Thứ hai, khắc phục sự thiếu hiệu quả trong hoạt động ngân hàng, như ngân hàng bán buôn, thanh toán xuyên biên giới. Thứ ba, phát triển ngân hàng số phải gắn với việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong hoạt động ngân hàng.