Nhưng theo học giới, lời giảng trên lại cho thấy các soạn giả đã đi chệch quá xa nội dung đích thực của câu do chẳng hề căn cứ gì vào nghĩa đen của các hợp phần tạo nên câu, nhất là mấy chữ “kẹn” và “hom”.
Trước khi trả lời câu hỏi được nêu ở nhan đề, chắc hẳn ta nên tìm hiểu thử xem điều gì đã khiến GS. Hoàng Phê, một chuyên gia nghĩa học hàng đầu, đành bằng lòng với một lời cắt nghĩa khá tuỳ tiện đến thế trong một công trình lớn mà ông đã dốc bao tâm sức vào những năm cuối đời.
Theo thiển ý, sở dĩ GS. Hoàng Phê cùng các cộng sự đành chấp nhận chuyện ấy chung quy chỉ vì trong khối ngữ liệu gồm hơn hai triệu phiếu được ông dày công gây dựng và luôn lấy làm tâm đắc vẫn chưa có hoặc có quá ít những phiếu đả động tới nghề tằm tang. Bởi lẽ nếu có, chắc ông cùng các cộng sự sẽ nhận ra ngay ba điểm đáng ngờ sau: (a) Từ “kén” dùng ở đây đâu phải là động từ, mà là danh từ để chỉ cái tổ bằng tơ do tằm kết nên để làm nơi hoá thân trong tiến trình biến thái; và (b) “kẹn” là một từ cổ chỉ trạng thái bị dính chặt vào một cái gì đó; còn (c) “hom” là những thanh tre mảnh để đan nên các tấm “né”, thứ đồ dùng được dân chăn tằm dùng để làm chỗ cho giống sâu hữu ích kia kết kén.
Từ những gì vừa trình bày, chúng ta có thể rút ra nhận định: Nội dung đích thực của “già kén kẹn hom” là “Kén mà để quá già (= lâu) trên né thường dễ bị dính chặt vào hom (khiến khi cần rất khó gỡ ra)”.
Đối sánh hai lời cắt nghĩa vừa nêu chắc ai cũng có thể đi đến kết luận: Thiếu các ngữ liệu cần thiết thường dẫn tới những hậu quả ngoài mong đợi khi soạn thảo các loại từ điển. Xem vậy đủ thấy lời căn dặn của người xưa quả chí lý: Thiếu bột thì dẫu dày công đến mấy e cũng khó lòng mà gột nên hồ được!