Hồi đi làm phim về Nguyễn Tư Nghiêm nghe ông nói về Âm Dương trong hội họa, mỗi khi ngắm nhìn vầng mặt trời đi trên doi cát sông Hồng để rồi mặt trăng hiện lên trên phố cổ Hà Nội, tôi cũng mơ hồ cảm thấy vẻ đẹp vĩnh cửu về sự chuyển dịch của Âm Dương trong thế giới tinh thần của những bậc thầy hội họa.
Nguyễn Tư Nghiêm có một cảm nhận sâu sắc với sự chuyển dịch của Âm Dương giữa những biến đổi về màu sắc trong tranh, phù hợp với tình cảm hồn nhiên trong tâm hồn mình. Trong “Mười hai con giáp” và “Điệu múa cổ”, ông đã tìm thấy trong suy ngẫm của mình những ý nghĩa sâu sắc về mỹ học. Tôi ghi được trong phim đoạn ông nói về nhận thức: “Nhận thức là một dạng trở về căn nguồn đúng nhất của con người. Hội họa và điêu khắc là mặc niệm, là đạo dẫn tới một trạng thái tối thượng nơi không còn cái ý nghĩa cắt lìa giữa con người và vũ trụ, con người và sinh vật, đá và cây, sông và núi. Tất cả chỉ còn là một bản chất”. Có thể vì vậy mà ông say mê những phù điêu đá cổ của các đình chùa nơi mà cảm xúc thẩm mỹ đã đặt trọng lượng đáng kể của mình vào cái tưởng như không có gì?
Ông nhớ lại: Năm 1943, thời gian ở Sơn Tây, ngày ông còn đi học ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung hay rủ Nguyễn Tư Nghiêm đi vẽ phong cảnh và thăm những di tích cổ. Đặc biệt vùng này có nhiều đình làng thuộc loại cổ nhất nước ta. Những cảm xúc mạnh mẽ ban đầu ấy mãi mãi còn để lại ấn tượng trong việc mở ra một lối rẽ rất riêng, chỉ có Nguyễn Tư Nghiêm mới có. Để rồi sau này xuất hiện những biến tấu của điệu múa cổ - bao gồm nhiều tác phẩm sơn mài về chủ đề này đã được các nhà phê bình mỹ thuật đánh giá là đỉnh cao nghệ thuật của ông. Một trong những bức múa cổ của ông được nhận giải Vàng chính thức của triển lãm Hội họa Quốc tế tại Sofia (Bulgaria) năm 1986.
Ông cố vẽ thêm một Múa cổ nữa bằng bột màu để tôi ghi lại trong phim. Trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng hẹp, trong tay ông hiện ra điệu múa của các cô gái Việt xưa với cả vũ điệu và âm nhạc. Như một ánh tà dương hắt lại từ xa xưa, múa cổ chen chúc những nhân vật già, trẻ, nam nữ với những dáng điệu kỳ lạ như ở các đồng Phật đắp đất tô màu như ở các ban thờ nhỏ chùa miếu với tượng đồng, gỗ, sơn thiếp, lên xuống, qua phải, sang trái... ẩn hiện sau hoa cúng và hương khói. Tất cả còn nguyên cái hơi thở nồng ấm của cuộc sống hiện về từ quá khứ.
Tranh của Nghiêm là một thế giới đa tầng, nơi người ta có thể cảm nhận được ấn tượng nghệ thuật đến từ nhiều chiều trong tâm thức của ông. Những tranh Thánh Gióng với đường nét miên man ẩn hiện gợi nhớ tính chất Đông Sơn, đưa tâm thức về với cội nguồn. Tranh Kiều và những bức tranh khác đầy biểu cảm với nét vẽ như tỏa ra từ xúc động nội tâm con người. Mỗi độ Xuân về, Tết đến, ông lại khai bút mảng tranh giấy với những con giống trong bộ “12 con giáp” một cách cần mẫn, miệt mài, đầy cảm hứng như những ông đồ xưa ngồi viết chữ Hán trên vỉa hè Hà Nội. Những bức tranh như báo hiệu được trước thời gian để lộ những tình cảm bâng khuâng chờ đợi một chu kỳ làm mới lại của vạn vật làm ấm lòng người.
Hà Nội gắn liền với cuộc đời và nghệ thuật của các họa sĩ. Nguyễn Tư Nghiêm nói rằng: “Hà Nội là một phần cuộc đời của tôi. Lắng nghe trong lòng phố cổ như có tiếng đồng vọng về tâm hồn mình. Ở Hà Nội tôi có những bạn bè thân thiết gắn bó với hội họa, có Dương Bích Liên, có Nguyễn Sáng, có Bùi Xuân Phái và các bạn khác. Có quán rượu Thủy Hử ở ngoài ga cạnh đường tàu, nơi chúng tôi gán tranh cho chủ quán treo lên tường để đổi lấy rượu...”. Quán Thủy Hử ngày nay không còn người trở lại. Chân mây cuối trời ở cõi bên kia đã quá xa xôi cho những người uống rượu tìm về. Những bức tranh treo ở trên tường cũng không còn nữa. Bức tranh Rồng ông cho, tôi cũng đem đổi rượu. Như trong thơ cổ, “Đám mây hình con Rồng”, giờ đây không biết đã làm mưa ở chốn nào!
Cuộc đời cũng như tranh của Nguyễn Tư Nghiêm không có cái có và cái không có. Chúng lướt qua nhau, xâm lấn vào nhau, không có sự phân chia cứng nhắc và vô nghĩa của đời sống thực. Ý tưởng nghệ thuật im lặng giấu mình của Nguyễn Tư Nghiêm nói lên nỗi lo âu của con người và dân tộc. Những gì còn lại trong tranh của Nguyễn Tư Nghiêm chỉ là một phần bé nhỏ của tâm hồn ông. Cuối cùng chúng ta trả lại thiên nhiên tất cả những gì mà chúng ta đã có - Đó là vinh dự lớn nhất mà nghệ thuật có thể đem lại cho con người. Bởi thiên nhiên là vĩnh cửu mà người nghệ sĩ có thể chối bỏ cả mình, để được cuốn theo sự cám dỗ thiêng liêng của cái đẹp bí ẩn trong nghệ thuật.