Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một cách nhìn độc đáo và toàn diện về văn hóa. Đối với Người, văn hóa không chỉ là những giá trị tinh thần trừu tượng, mà còn là một phần không thể tách rời của đời sống xã hội. "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa".
Bác Hồ nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của dân tộc. Người khẳng định: "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi". Câu nói này không chỉ khẳng định vai trò dẫn dắt, vai trò then chốt của văn hóa mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bác cũng chỉ ra rằng văn hóa không chỉ là di sản cần được bảo tồn, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước và con người.
Người hiểu rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới là điều cần thiết cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong sách Về công tác văn hóa văn nghệ, Người chỉ rõ "Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ".
Những hành động cụ thể của Bác trong việc bảo tồn di sản văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng về văn hóa mà còn là người tiên phong trong việc thực hiện các hành động cụ thể để bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã có những quyết định mang tính lịch sử trong lĩnh vực này. Một trong những hành động quan trọng nhất là việc Bác Hồ ký Sắc lệnh số 65/SL ngày 23.11.1945 về việc bảo tồn di tích trên toàn quốc. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam độc lập về bảo tồn di sản văn hóa. Sắc lệnh này, dù ngắn gọn, nhưng đã thể hiện tầm nhìn xa rộng của Người về vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. Người cũng từng nhấn mạnh: “Di sản văn hóa chính là nơi thể hiện rõ nét nhất hồn cốt của một dân tộc”. Việc mất đi di sản, dù chỉ là một phần nhỏ, cũng đồng nghĩa với việc đánh mất bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, việc bảo vệ và giữ gìn di sản văn hóa là nhiệm vụ của mọi thế hệ.
Không chỉ ban hành chính sách, Bác Hồ còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động bảo tồn di sản. Vào ngày 29.1.1960, Bác Hồ đã đến thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa và trí tuệ của dân tộc. Tại đây, Người đã đọc các bia đá ghi danh tiến sĩ, thể hiện sự tôn vinh đối với truyền thống hiếu học của dân tộc. Hành động này của Bác không chỉ là sự quan tâm đến di tích lịch sử mà còn là sự khích lệ tinh thần học tập, rèn luyện của thế hệ trẻ. Bác Hồ cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hóa. Người từng nói: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Bác cũng chỉ rõ: "Phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới". Điều này cho thấy tầm nhìn xa rộng của Người trong việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa tiên tiến và hiện đại. Tất cả, tư tưởng về văn hóa của Người vẫn còn là vốn quý, là nền tảng để Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đầu tư cho văn hóa để phục vụ sự phát triển bền vững của sự nghiệp đổi mới, canh tân và phát triển đất nước.