Đó là nhận định của Tiến sĩ Phan Thanh Hải - Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên - Huế tại Hội thảo khoa học “220 năm quốc hiệu Việt Nam - Những chặng đường lịch sử (1804 - 2024)” do Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên - Huế tổ chức mới đây.
Khẳng định vị thế đất nước độc lập, thống nhất
Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, vừa biểu thị chủ quyền lãnh thổ, lại vừa thể hiện các yếu tố hợp pháp về chính trị, luật pháp, quân sự, văn hóa, ngoại giao.
Trong lịch sử nước ta, tên gọi Việt Nam đã xuất hiện từ lâu, nhưng chưa phải là quốc hiệu chính thức. Chính thức là phải đến năm Giáp Tý, ngày Đinh Sửu, 17.2 (tức 28.3.1804), khi vua Gia Long làm lễ Khánh an kính cáo ở Thái miếu (trong Hoàng thành) đặt tên nước là Việt Nam.
Dưới triều Nguyễn, quốc hiệu Việt Nam được duy trì gần 4 thập kỷ qua 2 đời vua Gia Long và Minh Mạng. Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), nhà vua đổi quốc hiệu từ Việt Nam sang Đại Nam. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, triều Nguyễn kết thúc.
Ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nay là Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trải qua các thời kỳ lịch sử, quốc hiệu Việt Nam đã khẳng định vị thế của một đất nước độc lập và thống nhất.
Theo Tiến sĩ Phan Thanh Hải, trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, Huế giữ một vị thế rất đặc biệt. Huế đã góp phần rất quan trọng trong việc phát triển đất nước về mọi mặt.
Đó là việc tạo ra một trung tâm mới ở phía Nam: Sài Gòn; đưa Việt Nam hội nhập vào Đông Nam Á và thế giới; nâng cao vị thế của dân tộc và đưa Thăng Long - Hà Nội lên một vị thế mới sau khi trao chuyển vai trò kinh đô.
Đây cũng là quá trình quốc gia Đại Việt phát triển trở thành nước Việt Nam, Đại Việt Nam (Đại Nam), rồi nước Việt Nam mới với lãnh thổ cương giới rộng lớn gấp bội phần và với những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Huế là một phần rất quan trọng trong lịch sử dân tộc, và cũng là phần không thể thiếu trong mối tương quan giữa ba trung tâm lớn: Hà Nội - Huế - Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh), cũng như trong sự phát triển của các kinh đô Việt Nam.
Cũng từ Huế, quốc hiệu Việt Nam đã chính thức được trở thành tên gọi/danh xưng nước ta cách đây tròn 220 năm (1804 - 2024) gắn với hình hài lãnh thổ, lãnh hải trọn vẹn như ngày nay chúng ta đang được thừa hưởng.
Quốc hiệu Việt Nam chứng kiến nhiều biến thiên chính trị
Trong khi đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Trung Tiến (Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên - Huế) đưa ra nhiều dẫn chứng, quốc hiệu Việt Nam được đề cập trong các ấn phẩm quốc tế thời hai vua Gia Long và Minh Mạng tuy khá ít ỏi, nhưng luôn nổi bật lên nội dung chính với sự công nhận An Nam hay Việt Nam là một đế chế thống nhất từ nhiều vùng lãnh thổ trước đó, trải khắp bán đảo Đông Dương và vùng Biển Đông, với quần đảo Hoàng Sa, lúc đó còn bao gồm Trường Sa nằm trên lãnh hải của xứ Đàng Trong cũng là một bộ phận thuộc đế chế này.
Theo ông Tiến, việc công nhận lãnh thổ thống nhất bao gồm các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa thuộc “Đế chế An Nam hay Việt Nam” trong các ấn bản quốc tế thời hai vua Gia Long và Minh Mạng mang ý nghĩa và giá trị lịch sử sâu sắc: Hai chữ Việt Nam từ đó trở thành biểu trưng cho một quốc gia có chủ quyền lãnh thổ rộng lớn và thống nhất cả trên đất liền và trên biển, trong đó bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Không dừng lại đó, quốc hiệu Việt Nam theo Tiến sĩ Phan Tiến Dũng - Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên - Huế, đã thúc đẩy các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa phát triển.