Tháng 1.2023, Việt Nam đón 871.200 lượt khách quốc tế, tăng 23,2% so với tháng trước, gấp 44,2 lần so với cùng kỳ 2022. Đây là những tín hiệu tích cực ngay từ đầu năm 2023. Tuy nhiên, trong bối cảnh các nước trên thế giới, đặc biệt là Đông Nam Á, đều tăng tốc xúc tiến, quảng bá để đón khách quốc tế, Việt Nam được cho là cần có thêm nhiều giải pháp kịp thời để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Gỡ nút thắt visa
Từ 15.3.2022, Việt Nam mở cửa đón khách quốc tế và khôi phục chính sách miễn thị thực như trước đại dịch cho công dân từ 24 nước, trong đó có 8 quốc gia Châu Âu. Tuy nhiên, chính sách miễn thị thực theo hình thức đơn phương và song phương. Thị thực điện tử (e-visa) cấp cho công dân 80 quốc gia nhưng giới hạn về số cửa khẩu cho phép người nước ngoài nhập cảnh.
Thời gian miễn thị thực thông thường với khách đến Việt Nam là 15 ngày và nhập cảnh 1 lần. Trong khi đó, thời hạn miễn thị thực của nhiều nước ASEAN từ 30 ngày đến 45 ngày, thậm chí 90 ngày. Chính sách visa được cho là nút thắt đầu tiên cần được tháo gỡ để thúc đẩy thị trường quốc tế. Hội đồng Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) đánh giá hiện tại yêu cầu khách quốc tế phải có thị thực trước khi khởi hành/ thị thực nhập cảnh/ thị thực điện tử là chính sách nghiêm ngặt.
EuroCham cũng đề xuất Việt Nam cấp thị thực du lịch dài ngày cho khách du lịch từ Châu Âu.
Nhận định về chính sách thị thực của Việt Nam, ông Nguyễn Châu Á - Tổng Giám đốc Oxalis Adventure - cho rằng, miễn visa là một điều kiện tốt để thu hút khách du lịch quốc tế đến một đất nước nhưng đó “không phải là tất cả”. Ông Châu Á cũng cho rằng, Việt Nam cần nhắm đến loại visa dành cho nhóm khách Digital nomad - người có việc làm ổn định nhưng không cần đến văn phòng, có thể vừa đi du lịch vừa làm việc từ xa.
Kế đến là e-visa, cấp visa tại cửa khẩu (Landing visa). Với hệ thống cấp visa trực tuyến hiện tại, Việt Nam chỉ cần nâng cấp hệ thống và quy trình phê duyệt visa thuận lợi cho du khách trong thời gian hạn định. Điều này sẽ giúp khách du lịch yên tâm sắp xếp chuyến đi hơn, vì ngoài visa ra họ còn phải đặt vé máy bay, khách sạn, tour du lịch và nhiều dịch vụ khác.
Thứ ba là quảng cáo dịch vụ e-visa đến các thị trường tiềm năng để nhiều du khách tiếp cận được cổng thông tin visa điện tử Việt Nam.
Quảng bá trúng đích
Năm 2019, Top 5 thị trường nguồn của Việt Nam là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) và Mỹ. Mặc dù thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan gửi khách nhiều và liên tục tăng từ 2015 đến 2019, du khách lại có mức độ nhận biết khá thấp về hình ảnh điểm đến Việt Nam, theo báo cáo mới của Outbox Company, công ty nghiên cứu thị trường du lịch tại Việt Nam.
Theo đó, mức độ nhận biết về hình ảnh điểm đến Việt Nam đạt 4,1 điểm trên thang 7 (thấp nhất là 1 điểm, cao nhất là 7). Chỉ 18% số khách Hàn Quốc khảo sát tự tin về sự nhận biết về hình ảnh điểm đến Việt Nam của mình. 62% khách Nhật Bản tự nhận thấy chỉ hiểu biết tương đối và có đến 21% gần như không biết hoặc biết rất ít về Việt Nam. Còn 21% du khách Đài Loan có mức độ nhận biết thấp và 63% cho rằng, sự hiểu biết về Việt Nam ở mức trung bình - khá.
Phó Chủ tịch Thường trực Liên chi hội Lữ hành Việt Nam - Phùng Quang Thắng đánh giá công tác xúc tiến du lịch của Việt Nam vẫn mạnh ai nấy làm. “Các doanh nghiệp vẫn chủ động nhưng phải có một chiến dịch sao cho đồng bộ từ cơ quan Nhà nước cho đến doanh nghiệp. Chúng ta phải xác định cho đúng để đầu tư thật mạnh vào những thị trường có khả năng” - ông Phùng Quang Thắng chia sẻ.
Từ góc độ doanh nghiệp du lịch, ông Châu Á đồng tình rằng, Việt Nam cũng chưa có chiến lược hay phương pháp cụ thể để tiếp thị, quảng bá đến các thị trường mục tiêu.
“Cái quan trọng nhất của du lịch là xác định thị trường khách quốc tế đến của Việt Nam, kế đến là tạo ra sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của họ, bước tiếp theo mới là marketing quảng bá điểm đến” - ông Châu Á nói.
Trong hơn 870.000 lượt khách quốc tế đến Việt Nam vào tháng 1 vừa qua, ước tính khách Châu Á chiếm tới 60%, còn lại là thị trường Mỹ, Úc và Châu Âu. Ông Châu Á đánh giá khách từ thị trường Mỹ và Châu Âu còn rất thấp so với tiềm năng. “Tôi cho rằng, Việt Nam cần phân chia thị trường ra thành các nhóm khác nhau với nhu cầu du lịch khác nhau, từ đó có chiến lược và phương pháp marketing phù hợp và đúng đối tượng. Việc này sẽ giúp việc quảng bá đi vào thực chất và hiệu quả hơn” - ông Châu Á nhấn mạnh.
Tập trung hơn nữa vào thị trường Châu Âu cũng là kiến nghị của EuroCham dành cho Việt Nam, với đề xuất mở các văn phòng của Tổng cục Du lịch tại Châu Âu làm đầu mối cho các bên, thúc đẩy hoạt động và quảng bá hình ảnh đất nước.
Năm 2019, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 18 triệu lượt - bằng 1/5 so với 85 triệu lượt khách nội địa, nhưng doanh thu đạt 421.000 tỉ đồng chiếm đến 55,7% từ du lịch. Con số này cho thấy thị trường quốc tế có vai trò quan trọng với ngành du lịch Việt Nam. Nếu triển khai đồng bộ các giải pháp kịp thời từ xây dựng sản phẩm, điều chỉnh chính sách visa cho đến thực hiện chiến dịch truyền thông hiệu quả, ngành du lịch Việt Nam hoàn toàn có thể rộng cửa đón khách quốc tế trong năm 2023.