Cầm cự “giữ ẩm”
Chủ tịch UBND xã Mỹ Tài Hồ Văn Long lúc lắc mái đầu phờ phạc, bù xù như tổ quạ, cặp mắt mất ngủ đờ đẫn vằn vện những tia máu đỏ: “10 năm rồi, chưa khi nào nắng nóng khốc liệt như năm nay”. Ông Long bấm điện thoại gọi cán bộ phụ trách giao thông - thủy lợi Nguyễn Thành Lân để chúng tôi được thông báo diễn biến mới nhất liên quan tới vũ điệu điên cuồng của con số thiệt hại. Chẳng buồn chào hỏi, Lân nhập đề ngay: “Có thêm lúa chết ở đồng Sắt, đồng Mới.
Trưởng thôn Vạn Ninh 1 vừa báo. Chưa kịp thống kê mức độ tổn thất”. Có nghĩa Vạn Ninh 1 còn xếp hàng sau xa lắc mấy địa chỉ mà Chủ tịch Long ngao ngán đọc lên: Mỹ Hội 1, Mỹ Hội 2, Mỹ Hội 3, Vĩnh Phúc 7, Vĩnh Phúc 8, rồi đồng Cây Da, Hóc Quảng…
Ông Long lại “báo cáo nhanh”, không cần viện sổ sách: “Toàn xã 354ha lúa hè thu, tới ngày 11.6, có hơn 150ha bị hạn hán nuốt chửng, gần 100ha thuộc diện mất trắng. Cũng chết dần chết mòn là 760ha cây trồng cạn. “Lỳ” cỡ cây sắn (chiếm phần lớn diện tích hoa màu, là chỗ dựa giải quyết công ăn việc làm, cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy chế biến tinh bột sắn Phù Mỹ và nghề làm bánh tráng cha truyền con nối ở địa phương) mà cắm xuống đất 6 tháng vẫn đỏ quạch, lè tè trên mặt đất cát thì nói năng chi! Hai công trình thủy lợi trọng điểm Hóc Quảng, Núi Giàu không còn một giọt nước”.
Mỹ Tài đang gồng mình cho mục tiêu níu giữ chừng 150ha lúa. “Thành bại ra sao chưa biết. Trước hết, ưu tiên cho những trà 2-2,5 tháng tuổi. Ngoài chuyện “hồn ai nấy giữ”, xã yêu cầu tạm ứng 24 triệu đồng từ nguồn cấp bù thủy lợi phí bên hợp tác xã nông nghiệp, đào 4 ao lớn, dùng chung: 2 cái ở Mỹ Hội 1; Mỹ Hội 3, Vĩnh Phúc 7 mỗi thôn 1 cái. Phải dè sẻn, thắt lưng buộc bụng thôi. Cố giằng co, cầm cự bằng lối tưới giữ ẩm. Không còn lựa chọn nào khác” - giọng vị chủ tịch ỉu xìu, nhất là đoạn phác họa bức tranh cho vài tháng tới - “Hè thu cạn nước, vụ mùa tới chỉ còn biết thả lúa gieo. Mọi năm, thường xê dịch khoảng 50-70 hộ thiếu lương thực kỳ giáp hạt. Năm nay, dự kiến của chúng tôi còn u ám hơn nhiều”.
Bò cũng chẳng buồn ăn
Trưa nắng như đổ lửa, cánh đồng Mỹ Hội vẫn lốm đốm, nhấp nhô những dáng người lặng lẽ, tảo tần, cam chịu. Trên thửa ruộng hơn 1 sào của gia đình ông Nguyễn Soi, một tốp ba chị em khăn áo bịt bùng đứng chia việc cho nhau. Trật mẩu khẩu trang ngột ngạt xuống dưới cằm, chị Nguyễn Thị Nguyệt quệt mồ hôi bằng cánh tay còn nắm chặt lưỡi liềm lấp loáng: “Nóng phát sảng luôn”. Có cảm giác như ở Mỹ Tài, khuôn mặt nào cũng chằng chịt nỗi héo hon, nhàu nhĩ. Thì cách đây ít phút, chỗ cầu Dốc Tầm kia, chẳng phải tôi đã ngại ngùng khựng lại trước dáng ngồi tiều tụy, ủ rủ, âu lo và buồn thảm của lão nông Đặng Thanh Liên đó sao! Ông Liên nhà ở Mỹ Hội 3, có 3 sào rưỡi ruộng sạ thì quá nửa đã cắt bỏ cho bò ăn. “6 miệng ăn chầu chực, đói là cái chắc. Thiệt là hết cách”.
Câu chuyện của chị Nguyệt cũng hiện diện chữ đói to đùng: “Không phải ngày một ngày hai, tới 3 tháng lận. Biết lấy gì ăn mà không đói. 3 sào lúa thì 2 sào làm cỏ cho bò mất rồi”. Nguyệt vừa trở về từ Mỹ Hòa, nơi chị tìm thấy giải pháp đắp đổi “chữa cháy” qua công việc hái ớt thuê, mỗi ngày được trả 100.000 đồng. Chị bảo cứ biền biệt lăn lóc khắp nơi, “ai kêu cũng dạ, ai thuê cũng ừ”, xúc cát, trộn hồ, chặt cây, nhổ đậu...
Kể cả tụi nhỏ, nghỉ hè là nghỉ hẳn, chẳng học thêm học nếm gì hết. Đứa nào trộng trộng, có chút sức vóc nhờ cậy được thì trần lưng ra, phơi nắng phơi sương. Đám ruộng nhà ông Sỏi chị tham gia thanh lý là một trong những “di sản” thất bát cuối cùng ở Mỹ Hội thuộc danh sách buộc phải “chuyển đổi công năng”. Oái ăm, tức tưởi làm sao. Ở đó dồn chứa, thấm đẫm biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Những bông lúa qua giai đoạn cúi mình nhưng xác xơ, lép xẹp sóng soài, la liệt ngã rạp dưới lưỡi hái sắc ngọt, giận dữ của Nguyệt.
Chị lầm lũi, thì thụp, nhấp nhô hành tiến, quay trái, quay phải, chồm lên trên, tuồng không muốn phí hao sức lực tiếp diễn cuộc trả treo. Đằng sau chị, ngút ngàn xác rạ vừa cắt bỏ đã đỏ sậm, khô cong. Phía đó, hai chị em bà Thân Thị Cúc chấp chới tới lui, nhẫn nại gom cuộn thành bó, quây tròn, chất đống, chờ chuyển về xóm trong làm thức ăn cho bò. “Mà bò cũng chê, nhai vô nhả ra, do đắng hay sao không biết. Ăn bao nhiêu, đỡ lo cỏ rác bấy nhiêu, chứ còn biết làm gì?” - bà Cúc nói.
“Vắt đất tìm nước”
Có hàng ngàn vết thương đang xé rách đồng đất Mỹ Tài. Cánh đồng tanh bành tựa hố đạn cày bom xới. Tôi theo Chi hội trưởng nông dân Mỹ Hội 3 Đặng Đình Thúc ra thăm khoảnh ao dùng chung mới đào. Ao sâu 4m, bề mặt mỗi chiều khoảng 9-10m. Lớp nước lấp xấp, mỏng tang rung rinh dưới đáy.
Ông Thúc cho hay, có 57 hộ đang ngày ngóng đêm mong “ao làng” phát huy tác dụng. 2 ngày ồn ào sàng sảy bằng hình thức xoay vòng, sơ bộ đã xác định được 10 lá thăm may mắn. 47 trường hợp còn lại tiếp tục chờ đợi hên xui. Thật ra thì phần đông trong số 10 hộ đầu tiên cũng còn mỏi cổ dài dài. Đơn giản bởi nước ngầm tụt sâu, khánh kiệt, “chờ 5 tiếng mới bơm được 1 tiếng”. Thôi đành nháo nhào bung ra tự cứu.
Cách đó 2 thửa ruộng, dưới mấy tàu dừa che chắn sơ sài và chiếc chõng tre lật ngược chỏng chơ, Trần Thị Thân lom khom đấu nối đoạn ống dẫn gắn vào chiếc mô tơ 2 sức ngựa. “Bám trụ thâu đêm suốt sáng. Tôi và một chủ ruộng khác bên cạnh, phải thay phiên canh chừng. Hễ bơm 5 phút là đứt mạch, không “cắm trại” trăm phần trăm, dễ cháy máy như chơi” - chị Thân giải thích. Số người có cơ may cứu vớt thành công nồi cơm gia đình không nhiều nhặn gì cho cam.
Kể thêm chuyện về Nguyễn Văn Trứ, người đang loay hoay, chật vật giải cứu 1,05 sào ruộng đang độ lên đòng. Lại một trường hợp mang kiểu mặt buồn rười rượi. Giếng anh Trứ sâu hun hút, đào lên sụp xuống 2 hôm hãy còn nham nhở, lở lói.
“Ruộng tuốt ngoài xa kia, dây nhợ lằng nhằng cũng 50m. Giếng đào nhờ ruộng người khác, bỏ hoang. Chỗ bạn bè thân thiết, nhưng mất hơn tuần năn nỉ ỉ ôi, tôi mới được ưng cho” - Trứ giới thiệu “đặc điểm tình hình” rồi mon men trườn xuống giếng, dùng bao xác rắn múc nước châm vào động cơ máy bơm. Những giọt nước tong tả rớt xuống. Mặc kệ, anh Trứ chẳng buồn cả liếc nhìn, hồn vía như đang để tận đẩu tận đâu.
Nắng nóng đe dọa thiêu đốt luôn tình làng nghĩa xóm. Anh Võ Đình Thám đặt một mũi khoan phát hiện ra nước. Ngay lập tức ông Đặng Văn Kỳ hăm hở nhào vô. Mũi khoan mới cách mũi khoan cũ chưa đầy 1m. Hai người hàng xóm bao nhiêu năm tối lửa tắt đèn có nhau cuối cùng chưa ai sứt đầu mẻ trán nhưng những gì xảy ra cũng đủ để họ có thêm một trải nghiệm hú hồn. Anh Nguyễn Thành Lân bổ sung vụ khác, dưới Mỹ Hội 2: Có 3 cái giếng quây quần một chỗ trong khi những chủ nhân của chúng chưa biết còn chờ đợi bao lâu để “gương vỡ lại lành”.
“Cùng tắc biến”, vùng tâm hạn đang xuất hiện dịch vụ cấp nước tư nhân. Chúng tôi khó khăn chút đỉnh để tiếp cận công trường tích nước của Đặng Văn Long. Lý do là ai đó trêu chọc anh chàng bằng phụ danh “bán nước”. Một cỗ xe đào cắm đầu cắm cổ hùng hục bới móc. 2 triệu đồng cho ca thi công kéo dài 4 tiếng đồng hồ, quy mô thiết kế 10 x 6 x 4m. Long bật mí, anh hy vọng tìm đủ nước cứu 2 sào lúa nhà và 4ha ruộng chung quanh. “Buôn bán gì đâu, chỉ là thu hồi phần điện tiêu hao”, Long phân bua còn người dẫn đường thì huỵch toẹt: “15.000 đồng/ giờ. Tôi còn lạ gì, Mỹ Tài đâu phải chỉ có mình Long”.
Ninh Thuận công bố thiên tai hạn hán
Ngày 9.6, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận ban hành quyết định công bố thiên tai hạn hán xảy ra từ ngày 1.1.2015 trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Theo quyết định, từ vụ hè thu năm 2014 đến nay, lượng mưa trên địa bàn chỉ xấp xỉ 300mm, thấp hơn 50% so với cùng kỳ. Hiện lượng nước tại 20 hồ chứa chỉ đạt 7,9% dung tích thiết kế. Dự báo mùa khô năm nay có khả năng kéo dài đến tháng 8, nên tình trạng khô hạn, thiếu nước sẽ diễn ra trên diện rộng. Đến nay có 31/47 xã của 6/7 huyện, thành phố chịu tác động của khô hạn với hơn 41.000 khẩu cần hỗ trợ, cấp nước sinh hoạt. Hơn 500ha cây trồng mất trắng; hơn 16.000ha dừng sản xuất do thiếu nước; hơn 1.000 gia súc bị chết do thiếu nước và thức ăn...
H.V.M