Hiện tiềm lực khoa học công nghệ (KHCN) của Việt Nam còn rất khiêm tốn, không chỉ so với các nước phát triển, mà còn so với nhu cầu của một đất nước đang phát triển và trong so sánh ở tầm khu vực. Kết quả nghiên cứu cơ bản và định hướng ứng dụng của các tổ chức KHCN và các doanh nghiệp KHCN – vốn có vai trò chủ yếu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho mỗi quốc gia còn ít ỏi.
Chính vì vậy, các chương trình, hoạt động hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ, trong đó trọng tâm là Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020 (Chương trình 68) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao nhận thức về tài sản trí tuệ, tăng cường kết nối viện, trường – doanh nghiệp, hỗ trợ khai thác các tài sản vô hình (sáng chế/ giải pháp hữu ích, chỉ dẫn địa lý) thành giá trị kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tổ chức KHCN, các địa phương.
Theo Bộ KHCN, việc hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược sở hữu trí tuệ và quản trị tài sản trí tuệ được đẩy mạnh, góp phần giúp doanh nghiệp quản lý và khai thác tốt nguồn tài sản trí tuệ, nhiều mô hình và đã và đang được thực hiện tại các doanh nghiệp và đang dần phát huy hiệu quả mô hình quản trị tài sản trí tuệ tại Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội, Công ty Cổ phần Tập đoàn DABACO Việt Nam, Công ty TNHH MTV Đóng tàu Hạ Long, Công ty Cổ phần Vĩnh Thắng... Việc Chương trình tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp cũng khẳng định quan điểm của Bộ KHCN, Cục SHTT và các Bộ, ngành, địa phương lấy doanh nghiệp làm trọng tâm, động lực phát triển.
Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 với quan điểm hoạt động sở hữu trí tuệ có sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể trong xã hội, trong đó viện nghiên cứu, trường đại học, các cá nhân hoạt động sáng tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ, đồng thời, thúc đẩy các hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ và khuyến khích, nâng cao hiệu quả khai thác tài sản trí tuệ là một trong các nhiệm vụ, giải pháp được Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải thực hiện để triển khai.
Đã hỗ trợ bảo hộ, quản lý tài sản trí tuệ cho các sản phẩm nông nghiệp, gồm có 20 sản phẩm chủ lực, đặc thù địa phương như: Cam Cao Phong, tỉnh Hòa Bình; Bưởi năm roi Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long; Tôm sú Cà Mau, tỉnh Cà Mau; Khóm Cầu Đúc Hậu Giang; Cam Hà Giang, tỉnh Hà Giang; Yến sào Cù Lao Chàm - Hội An, tỉnh Quảng Nam; Tôm hùm bông Phú Yên, tỉnh Phú Yên; Dầu tràm Huế; Cam Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
Việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp, nhất là chỉ dẫn địa lý với các sản phẩm đặc sản của địa phương tiếp tục được duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hầu hết các địa phương đã xác định danh mục sản phẩm chủ lực, sản phẩm có lợi thế, sản phẩm đặc sản của địa phương và tập trung hỗ trợ xây dựng thương hiệu, nhờ đó đã nâng cao năng suất, chất lượng, tạo được giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp.