Cách mạng 4.0: Người học nghề càng nhiều “đất sống”
Trao đổi với PV Lao Động, ông Đồng Văn Ngọc - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội - nhắc đi nhắc lại về nỗ lực tiệm cận phương tiện thực hành cấp khu vực nhiều năm qua của nhà trường. “Việc đầu tư phương tiện thực hành hiện đại, một mặt thu hút học sinh, một mặt để các doanh nghiệp, đơn vị đối tác đến tham quan, chấp nhận tay nghề người học, quan trọng hơn, trong cách mạnh 4.0, nếu không cập nhật phương tiện thực hành, người học ngay lập tức lỗi thời khi nhận bằng tốt nghiệp”- ông Ngọc nói.
Thấm nhuần quan điểm này, Nguyễn Thị Bích Thùy (TP. Quy Nhơn - Bình Định) và Phan Văn Tú (huyện Ứng Hòa, Hà Nội) - hai người đã lựa chọn học nghề đều cho rằng, nếu học đúng ngành xã hội đang cần, sinh viên tốt nghiệp trường nghề không phải lo chuyện chật vật tìm việc.
Cũng vì nắm bắt xu thế và chớp cơ hội cách mạng 4.0 nên dù học khoa Điện tự động hóa, khi lập doanh nghiệp, Phan Văn Tú chọn mô hình chế tạo máy CNC. Mỗi ngày, nhóm công nhân của Tú đi khắp các địa bàn Hà Nội và lân cận để lắp đặt, chuyển giao những chiếc máy sáng tạo từ ông chủ 9X. Cả ông chủ và người làm, gần chục con người có thu nhập ổn định nhờ “nắm được xu thế” - như lời Tú nói.
Cần sự chuyển biến thực chất
Dù sinh viên trường nghề dễ dàng tìm được việc làm, thu nhập ổn định và làm đúng ngành mình được học, trong khi hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sỹ thất nghiệp đang bế tắc vì chưa có phương án giải quyết rốt ráo nhưng câu chuyện phân luồng thợ - thầy nhiều năm qua rất khó khăn.
Ghi nhận thành tựu tuyển sinh, nỗ lực giải quyết việc làm cho sinh viên sau học nghề, nhưng chính ngành giáo dục nghề nghiệp thừa nhận, lĩnh vực này đối diện nhiều khó khăn. Hiện nay, tỉ lệ phân luồng học sinh sau trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) vào học giáo dục nghề nghiệp (GDNN) rất thấp, chỉ khoảng 8%. Trong khi đó, chỉ tiêu tuyển sinh đại học lại rất lớn, xu thế của giáo dục đại học là bỏ điểm sàn trong thi đầu vào tiếp tục hút được số lượng lớn người học sau tốt nghiệp THPT vào đại học. Ngoài ra, tình trạng các doanh nghiệp chỉ tuyển lao động phổ thông, không cần qua đào tạo GDNN, cộng với xu thế tỉ lệ sinh giảm sẽ dẫn tới tiếp tục có những khó khăn trong công tác tuyển sinh của các cơ sở GDNN.
Bên cạnh đó, GDNN cũng chỉ ra những tồn tại cần được tháo gỡ, trong đó, chất lượng đầu vào của GDNN thấp; năng lực đào tạo của một số cơ sở GDNN còn hạn chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành chưa được chú trọng đầu tư; có những cơ sở GDNN chưa hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp trong quá trình tuyển sinh, tổ chức đào tạo, giới thiệu việc làm cho HSSV sau tốt nghiệp.
Một trong những “chìa khóa” giải quyết khó khăn mà ngành GDNN đưa ra là không chạy theo số lượng chỉ tiêu tuyển sinh; việc tuyển sinh phải gắn với tuyển dụng, việc làm sau tốt nghiệp của người học ở tất cả các trình độ. Bên cạnh đó, ngành GDNN sẽ tuyển sinh trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác nhằm trang bị kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động để tăng năng suất lao động, nâng cao thu nhập, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp, dịch vụ; ưu tiên đào tạo, đào tạo lại nhân lực đáp ứng yêu cầu cách mạng 4.0.