Cùng lúc Bộ Y tế, Tổng cục Dân số đã mạnh dạn đưa ra ba phương án điều chỉnh mức sinh. Trong đó có phương án 3: Cho sinh nở thoải mái, gây tranh luận.
Cho thoải mái cũng không dám sinh nhiều
Đó là tâm lý chung của đa số người lao động hiện nay. Chị Nguyễn Thị Hoa - 26 tuổi là mẹ của 1 bé trai 4 tuổi đang sống tại khu nhà trọ gần Khu công nghiệp Quang Minh - Hà Nội - cho biết: “Vợ chồng tôi cũng muốn sinh thêm cháu nhưng tình cảnh gia đình không cho phép. Hai vợ chồng làm cả tháng chưa đủ 9 triệu đồng rồi các loại tiền ăn, thuê nhà, mua sắm. Nếu đẻ thêm thì gánh nặng gấp đôi, thậm chí gấp ba”.
Cùng chung tâm tư của chị Hoa, gia đình anh Hậu - một lao động tự do - dù sinh con một bề hai bé gái, rất muốn sinh con thứ ba để cho đủ “nếp tẻ” mà đành chịu. “Bây giờ không như trước đây, dù nhà nước có cho đẻ thoải mái thì cũng thôi thôi”. Anh Hải - một công chức tại quận Cầu Giấy đã quyết định không sinh thêm. Vợ chồng tôi xác định là đẻ ít để nuôi dạy con cho tốt. Tôi nghĩ rằng việc quy định của nhà nước là cần thiết nhưng dân trí và nhận thức người dân hiện nay đã cao hơn nên không ngại bùng nổ dân số”.
Báo cáo số liệu 9 tháng đầu năm 2017 của Tổng cục Thống kê cho biết: Dân số trung bình năm 2017 của cả nước ước tính 93,7 triệu người, bao gồm dân số thành thị 32,9 triệu người, chiếm 35,1%; dân số nông thôn 60,8 triệu người, chiếm 64,9%; dân số nam 46,2 triệu người, chiếm 49,3%; dân số nữ 47,5 triệu người, chiếm 50,7%.
Theo kết quả Điều tra biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình thời điểm 1.4.2017, tổng tỉ suất sinh ước tính đạt 2,04 con/phụ nữ; tỉ suất sinh thô ước tính đạt 14,71‰; tỉ số giới tính của trẻ em mới sinh là 112,4 bé trai/100 bé gái; tỉ suất chết thô là 6,84‰; tỉ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 14,35‰; tỉ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 21,55‰. Tuổi thọ trung bình chung cả nước là 73,5 tuổi, trong đó nam là 70,9 tuổi và nữ là 76,2 tuổi.
Theo ông Nguyễn Văn Tân - Phó Tổng cục Trưởng phụ trách Tổng cục Dân số-Kế hóa gia đình, Bộ Y tế xung quanh vấn đề điều chỉnh dân số với ba phương án:
Phương án 1: Duy trì kéo dài mức sinh như hiện nay, theo phương án này chính sách dân số sẽ tiếp tục vận động mỗi cặp vợ chồng sinh 2 con, tuy nhiên không quy định thành luật với chính sách linh hoạt. Ông Tân phân tích, những nơi tỉ lệ sinh thấp thì phải vận động nâng mức sinh lên. Đặc biệt tại khu vực TPHCM, Đông Nam Bộ tỉ suất sinh rất thấp. Tại TPHCM có những giai đoạn trung bình một phụ nữ tuổi sinh đẻ có 1,3 con. Hay tại khu vực Đông Nam Bộ tổng tỉ suất sinh chỉ đạt 1,7 con. Những vùng tỉ suất sinh thấp thì nên khuyến khích sinh.
Phương án 2: Tiếp tục duy trì mỗi cặp vợ chồng nên có 1-2 con. Với chính sách này sẽ hướng tới mục tiêu nhằm tiếp tục giảm mức sinh, giảm tốc độ gia tăng dân số, gia đình sinh con ít hơn sẽ có điều kiện chăm sóc, nuôi dạy trẻ tốt hơn.
Tuy nhiên phương án này cũng có mặt trái của nó, khi mà mức sinh tiếp tục giảm xuống thì việc tăng sinh là khó khăn, bài học từ Hàn Quốc, Nhật Bản cho thấy rất khó để thuyết phục người dân sinh đẻ.
Phương án 3: Gây tranh cãi nhất: Cho người dân đẻ thoải mái. Với phương án này, chính sách dân số sẽ dừng vận động sinh 1-2 con và sẽ không cấp phương tiện tránh thai miễn phí. “Rất có thể, dân số Việt Nam sẽ gia tăng trở lại” - ông Tân nhận định.
Nguy cơ lỡ “dân số vàng”
Việc Tổng cục Dân số đưa ra 3 phương án là cần thiết bởi theo dự báo của các chuyên gia tốc độ già hóa dân số của Việt Nam đang nằm trong 5 quốc gia nhanh nhất thế giới. Các cảnh báo được đưa ra, đến năm 2050, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn siêu già với dân số già chiếm tới 20% dân số. Đây cũng là vấn đề đặt ra nhiều thách thức đối với công tác chăm sóc sức khỏe và khả năng phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia.
Với những tồn tại nêu trên, một trong những nội dung quan trọng của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành T.Ư Đảng Khóa XII lần này là nâng cao chất lượng dân số, để không bỏ lỡ cơ hội của thời kỳ “dân số vàng” với xu thế là chuyển trọng tâm công tác dân số từ dân số kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) sang dân số và phát triển.
Ông Lê Cảnh Nhạc - Phó Tổng cục Trưởng Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình cho rằng, trước đây, do tốc độ gia tăng dân số quá nhanh, nhằm mục đích cao nhất là giảm sinh nên công tác dân số tập trung vào nội dung chính là KHHGĐ, vận động người dân sinh từ một đến hai con nhằm kiểm soát quy mô dân số. Hiện nay Việt Nam đã khống chế thành công tốc độ gia tăng dân số, sớm đạt và duy trì mức sinh thay thế. Vì vậy, đòi hỏi công tác dân số không chỉ tập trung về nội dung KHHGĐ mà cần phải giải quyết toàn diện các vấn đề về quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số, phân bố dân số, hài hòa với phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên theo ông Nhạc, cần phải nhận thức rõ rằng, chuyển trọng tâm công tác dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển không có nghĩa là xem nhẹ công tác KHHGĐ mà đây vẫn là nội dung hết sức quan trọng, bởi quy mô phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ của nước ta vẫn còn rất cao, nhu cầu về cung ứng các dịch vụ về KHHGĐ vẫn rất lớn mà hiện nay chúng ta vẫn chưa đáp ứng được.
Về chủ trương nới lỏng chính sách giảm sinh, theo ông Nhạc, về tổng thể, chúng ta nên dừng chính sách giảm sinh, không để mức sinh xuống thấp (duy trì mức sinh thay thế 2,1 con). Đối với những nơi mức sinh đang xuống thấp thì cần vận động người dân “sinh đủ hai con” đối với những nơi điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn có mức sinh cao, thậm chí rất cao thì vẫn phải tiếp tục vận động giảm sinh để đưa về mức sinh thay thế.
Về việc tận dụng lợi thế dân số vàng, tránh tình trạng “cầm vàng để vàng rơi” theo các chuyên gia dân số, VN cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. Đó là, duy trì mức sinh hợp lý nhằm kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng”, làm chậm quá trình “già hóa dân số”; tăng cơ hội việc làm, hướng đến những việc làm tạo giá trị gia tăng cao dựa trên năng suất lao động, đa dạng hóa ngành nghề ở nông thôn, các ngành sử dụng nhiều lao động; mở rộng nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường lao động…
Quan điểm của ông Nguyễn Đình Cử - nguyên Viện trưởng Dân số và Các vấn đề xã hội - cho rằng, trước những lợi thế và khó khăn, thách thức của nguồn nhân lực, để không mất cơ hội trong thời kỳ dân số “vàng”, Việt Nam cần tập trung đào tạo lao động có trọng điểm, tập trung nâng cao chất lượng đào tạo phải theo lợi thế vùng miền, tập trung đào tạo tại lao động ở những khu vực, vùng miền có kinh tế năng động.