Trước hết dù muộn mấy tháng, vẫn xin chúc mừng ông được Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi. Công việc cụ thể như thế nào và nó “ngốn” bao nhiêu thời gian của ông?
- Nguyễn Bắc Sơn: Hội đồng Văn xuôi phải thẩm định các tác phẩm văn xuôi dự thi hằng năm giải Hội Nhà văn Việt Nam và xét các tác phẩm văn xuôi của các tác giả xin vào hội với một tinh thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm cao không chỉ với tác giả, giới nghề mà cả với công chúng, xã hội. Nó chiếm hết tất cả thời gian của tôi nó khiến tôi, không thể viết được gì vì số lượng sách đọc rất nhiều. Chỉ khoảng 3 tháng, tôi đã phải đọc gần 50 cuốn sách.
Vậy tại sao ông lại nhận lời? Và có khi nào ông đọc mấy chương rồi bỏ dở một cuốn nào đó?
- Tôi nhận lời làm Phó Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi vì sự ghi nhận, tôn trọng, đánh giá cao của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam với sự nghiệp cầm bút của tôi. Còn việc đọc tác phẩm đồng nghiệp đó là công việc nghiêm túc, vất vả.
Đọc những người mới cầm bút còn vụng về nhiều lúc muốn bỏ dở nhưng rồi cố đọc hết, xem có một cái gì đó “anh ánh” không? Nhưng có những cây bút viết lần đầu đã có tác phẩm già dặn, chín chắn như một người có nghề, từ ý tưởng đến cách thể hiện. Và khi đọc những cây bút có tên tuổi, phải cân nhắc nhiều, có khi phải đưa ra bàn bạc tập thể trong Hội đồng (chủ tịch là nhà văn Phạm Hoa). Nhưng ngay cả với những người chưa thành công, tôi cũng học được những điều bổ ích, tránh những sai lầm.
Trở lại với “Lính tăng”, đây có thể coi là sự “giã từ dĩ vãng” của ông sau loạt ba bộ (mỗi bộ 2 cuốn) về đề tài đời sống công chức nhà nước gây tiếng vang (“Gã tép riu”, “Vỡ vụn”, “Cuộc vuông tròn”), trước đó là bộ tiểu thuyết “Luật đời, cha và con” và “Lửa đắng”, để bước sang một chân trời mới. Cảm giác của ông khi sách xuất bản?
- Cảm giác hài lòng vì đây đánh dấu một bước chuyển của tôi khi sang một đề tài mới, về chiến tranh. “Lính tăng” dựa vào sự kiện lịch sử, bối cảnh truyện từ khi lính tăng Việt Nam xuất hiện ở Lào từ năm 1969 đến năm 1975. Còn tại sao là lính tăng? Năm 1962 tôi đã dạy ở trường cấp 3 Tân Trào, Tiên Quang, năm 1969 có 1 giáo viên dạy Sử về trường. Năm 1972, anh ấy đi bộ đội và ngẫu nhiên tôi cũng nhập ngũ đúng ngày anh ấy đi. Điều kỳ lạ là anh giáo viên ấy hai lần được truy điệu vì đồng đội tưởng anh đã hy sinh, rồi anh trở về nhưng vợ đã đi lấy chồng. Một lần về dự hội trường, anh ấy nhờ tôi viết sách về cuộc đời anh ấy. Đó là đại tá Nguyễn Văn Nhã - nhân vật chính trong “Lính tăng”. Cùng thời điểm này, bạn bè tôi như nhà văn Nguyễn Văn Thọ cũng khuyên tôi nên chuyển sang đề tài mới.
Ông phải đối mặt với rào cản nào lớn nhất khi viết?
- Tôi rất lo vì đụng vào lĩnh vực lạ lẫm, hai nguyên mẫu là đại tá Nguyễn Văn Nhã và Trần Văn Vụ, một người là lính thông tin, một là lái xe và chiến tranh cũng đã kết thúc lâu nên những sự kiện, những trận đánh cũng bị mai một dần đi trong trí nhớ. Tôi phải đi thực tế ở trường sĩ quan tăng thiết giáp, rồi vào thư viện đọc sách, gặp gỡ các nhân vật khác…
Nhà văn Hữu Thỉnh vốn là lính xe tăng rất ủng hộ cuốn sách này vì chính ông có bài thơ nổi tiếng “Trên một chiếc xe tăng” sau được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc thành bài hát “Năm anh em trên một chiếc xe tăng”.
Đọc “Lính tăng” của Bắc Sơn cũng như đọc các tác phẩm của ông phải đọc chậm, bởi lẽ ông luôn kết hợp tính tư liệu của các sự kiện lịch sử với sự hư cấu của tiểu thuyết. Người đọc vừa được thưởng thức sự tái hiện của lịch sử nhưng đó chỉ là cái phông nền để từ đó ông mô tả, phân tích cảm xúc của nhân vật, “nội soi” thế giới nội tâm của họ một cách tinh vi. Bắc Sơn rất cẩn trọng trong việc dùng câu chữ và khéo đưa chất u mua vào trong tác phẩm để câu chuyện cứ thế cuốn độc giả đi suốt mấy trăm trang sách để rồi dư vị đọng lại cứ trở đi trở lại. “Lính tăng” nói về chiến tranh, nước mắt, nụ cười với thông điệp nhân văn của tác giả được gửi gắm rất rõ...