Như Lao Động đã đề cập, thời gian qua, việc nhầm lẫn về khái niệm Di sản văn hóa phi vật thể đã gây ra nhiều ý kiến tranh cãi.
Trước vấn đề này, TS. Frank Proschan (Học giả Fulbright 2019-2020, cộng tác nghiên cứu tại Trung tâm Smithsonian về Đời sống dân gian và di sản văn hoá, giảng viên thỉnh giảng, trường Đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) đã làm rõ về cách gọi “Di sản văn hóa phi vật thể thế giới” hay “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”.
“Di sản văn hóa phi vật thể thuộc về cộng đồng, và chỉ duy nhất thuộc về cộng đồng. Di sản văn hóa phi vật thể không thuộc về quốc gia, nhà nước, dân tộc, hay nhân loại cũng như toàn thế giới”. TS. Frank Proschan một lần nữa nhấn mạnh, trong buổi tọa đàm diễn ra sáng nay (3.1).
Và ông giải thích rõ: “Điều này vẫn đúng cho dù Di sản văn hóa phi vật thể đó được kiểm kê, tư liệu hóa, đăng ký, đề cử, ghi danh hay bất kỳ cái gì khác”.
TS. Frank Proschan nhấn mạnh, hiện trạng của một Di sản văn hóa phi vật thể không thay đổi khi được UNESCO ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp hoặc Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nó vẫn thuộc về cộng đồng của nó và không trở thành “Di sản thế giới”, hay tài sản của nhân loại nói chung.
TS. Frank Proschan quan tâm đến khái niệm sai phổ biến ở Việt Nam, rằng UNESCO “công nhận” những hình thức cụ thể của Di sản văn hóa phi vật thể khi UNESCO ghi danh vào danh sách của Công ước 2003. Thực tế, chỉ có cộng đồng có thể công nhận di sản của chính họ.
Ông đưa ra ví dụ, với người đọc tiếng Việt, tỉ lệ dùng sai cho rằng UNESCO “công nhận” Di sản văn hóa phi vật thể cao gấp 4 lần so với cách dùng đúng là UNESCO “ghi danh” hoặc “đưa vào” danh sách.
Ông đặc biệt chú ý đến câu hỏi "Ai là người sở hữu Di sản văn hóa phi vật thể?" và cho rằng ở Việt Nam có xu hướng coi Di sản văn hóa phi vật thể cũng giống như các thuật ngữ về Di sản thế giới, ngay cả khi Công ước 2003 về Di sản văn hóa phi vật thể rất khác với Công ước 1972 về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới.
TS. Frank Proschan nhấn mạnh, những người soạn thảo ra Công ước 2003 đã chủ ý không sử dụng lại cụm từ “Di sản thế giới của nhân loại nói chung, như trong ngôn từ của Công ước 1972”. Thay vào đó nhấn mạnh rằng di sản văn hóa phi vật thể thuộc về cộng đồng và nhóm người cụ thể.
Theo Tiến sĩ, nếu xem xét thông tin đại chúng về Di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam, có thể thấy một số biểu đạt và cụm từ phản ánh những quan niệm sai lầm nhất định. Ông đặc biệt chỉ ra 3 cách dùng từ sai thường gặp ở Việt Nam: “Di sản văn hóa phi vật thể thế giới”, “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”, “UNESCO công nhận”.
Đối với TS. Franf Proschan, việc sử dụng đúng thuật ngữ vô cùng quan trọng vì 1 trong 4 mục đích của Công ước là “nâng cao nhận thức ở cấp địa phương, quốc gia, quốc tế về tầm quan trọng của Di sản văn hóa phi vật thể và của việc đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau”.
“Chúng ta, những người làm việc cùng nhau trong lĩnh vực bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể có trách nhiệm rất nghiêm túc là phải tôn trọng những khái niệm, ngôn ngữ trong Công ước để đảm bảo rằng khi chúng ta nâng cao nhận thức cộng đồng về Di sản văn hóa phi vật thể và tầm quan trọng của việc bảo vệ các di sản đó thì phải làm đúng với những gì đã ghi trong Công ước”, TS. Frank Proschan kết luận.