Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 tại xã Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nông dân. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống yêu nước, tận mắt chứng kiến cảnh đất nước lầm than, nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột, Lê Hồng Phong đã sớm nuôi trong mình tư tưởng yêu nước và ý chí làm cách mạng.
Cuối năm 1923, Lê Hồng Phong bí mật sang Xiêm (Thái Lan). Một năm sau đồng chí sang Quảng Châu (Trung Quốc) gia nhập nhóm Tâm Tâm xã và sau đó gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được Người giác ngộ cách mạng. Năm 1925, sau cuộc gặp mặt này, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tham dự lớp huấn luyện cán bộ cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở thành một trong những cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cuối năm 1931, đồng chí Lê Hồng Phong nhận trọng trách từ Quốc tế Cộng sản trở về nước chỉ đạo việc tổ chức khôi phục và phát triển các cơ sở Đảng, tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên. Đến cuối năm 1932, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Hồng Phong, Ban lãnh đạo lâm thời của Đảng được thành lập.
Tháng 3-1934, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hồng Phong, hội nghị thành lập Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài (Ban Chỉ huy ở ngoài) có 5 đồng chí. Hội nghị thảo luận về tình hình Đông Dương, tình hình hoạt động của Đảng ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Lào; thông tin về tình hình Đảng Cộng sản Xiêm... Đặc biệt, hội nghị bàn bạc và thông qua các bản Điều lệ của Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Nông Hội đỏ...
Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935, Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương được diễn ra; thảo luận và thông qua 12 nghị quyết về công tác vận động các đoàn thể, tổ chức quần chúng, Điều lệ của Đảng Cộng sản và các điều lệ về đoàn thể, hội quần chúng... Đại hội đã bầu vắng mặt đồng chí Lê Hồng Phong vào cương vị Tổng Bí thư đã khẳng định công lao và uy tín của đồng chí đối với việc xây dựng đường lối chính trị, khôi phục cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngay sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, với tư cách là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản, đồng chí đã triệu tập và chủ trì hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào ngày 26.7.1936 tại Thượng Hải (Trung Quốc).
Theo đề nghị của đồng chí Lê Hồng Phong, hội nghị quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau và các dân tộc ở Đông Dương để đấu tranh đòi những quyền dân chủ sơ đẳng.
Sức mạnh đấu tranh của quần chúng đã buộc chính quyền thuộc địa phải ban bố một số quyền tự do, dân chủ và thả hàng nghìn tù chính trị. Cuối năm 1937, đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động bí mật tại Sài Gòn trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào. Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, từ ngày 29 đến ngày 30-3-1938, tại làng Tân Thới Nhất, gần Bà Điểm, Hóc Môn, tỉnh Gia Định, Hội nghị Trung ương Đảng đã được tổ chức.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 3.1938, đồng chí Lê Hồng Phong tiếp tục tham gia chỉ đạo phong trào cách mạng ở các tỉnh Nam Kỳ và có nhiều đóng góp trên mặt trận báo chí nhằm thống nhất các quan điểm của Đảng về đấu tranh dân chủ; củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; góp phần quan trọng trong việc xây dựng và củng cố Đảng về mặt tư tưởng, tổ chức, đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam thời kỳ Mặt trận dân chủ, cũng là sự chuẩn bị tích cực để đi tới thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngày 22.6.1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Không tìm ra chứng cứ pháp lý để buộc tội đồng chí Lê Hồng Phong, ngày 30.6.1939, Tòa tiểu hình Sài Gòn đã kết án đồng chí 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc ở Nghệ An.
Tháng 1.1940, mật thám Nam Kỳ ra Nghệ An bắt đồng chí Lê Hồng Phong lần thứ hai và giam giữ tại Khám lớn Sài Gòn. Trong thời gian gần 1 năm giam giữ, tra tấn, hành hạ, chúng vẫn không tìm được lý do để kết tội tử hình đối với đồng chí. Mặc dù vậy, thực dân Pháp vẫn buộc tội đồng chí phải “chịu trách nhiệm tinh thần” cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, kết án 5 năm tù giam và 10 năm quản thúc.
Cuối năm 1940, đồng chí Lê Hồng Phong bị đày ra Côn Đảo. Trong những ngày bị biệt giam, kẻ thù luôn tìm cách hành hạ, tra tấn, đánh đập dã man đồng chí Lê Hồng Phong, hòng làm nhụt tinh thần, ý chí của người lãnh đạo cộng sản. Nhưng đồng chí quyết giữ vững phẩm chất, khí tiết của người cộng sản trong thực tế hoàn cảnh tù đày vô cùng khắc nghiệt. Đồng chí đã vĩnh biệt anh em, đồng chí của mình vào trưa ngày 6.9.1942. Trước lúc đi xa, đồng chí Lê Hồng Phong còn căn dặn: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.
Kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Lê Hồng Phong diễn ra vào dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế; tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết về xây dựng Đảng, như: Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Đây là dịp để chúng ta thành kính và tri ân công lao, đóng góp to lớn của đồng chí Lê Hồng Phong đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, nhân dân; qua đó củng cố và bồi đắp niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.