- Ông nhìn nhận thế nào về những thách thức và thuận lợi của Việt Nam trong năm nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2020 đối với việc xử lý một trong những “điểm nóng” là Biển Đông?
- Làm Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ thuận lợi trong việc đưa tiếng nói của mình đến cộng đồng quốc tế. Những vấn đề ở Biển Đông chúng ta đã từng nói và đưa ra ASEAN. Khi Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN, chúng ta sẽ chủ động hơn về vấn đề này, tất nhiên vẫn phải tôn trọng các nguyên tắc chung của ASEAN trong quá trình làm việc.
Là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ đóng vai trò để củng cố nội khối. Nội khối của ASEAN được củng cố sẽ tác động rất tốt vào môi trường hoà bình ở Biển Đông, là căn cứ tạo thuận lợi cho những đồng thuận cần thiết về cơ chế. Bên cạnh đó, ở vị trí Chủ tịch, chúng ta có thể thể hiện thiện chí, thuyết phục các nước thành viên cũng như các bên đối thoại với ASEAN, trong đó có Mỹ và Trung Quốc, đi đến những đồng thuận ở mức độ khác nhau. Tôi nghĩ rằng đây là cơ hội thuận lợi, chính vì thế Việt Nam phải tranh thủ lựa chọn, sắp xếp các ưu tiên để tiếp cận từng bước đưa những vấn đề từ dễ đến khó, tạo dựng lòng tin của ASEAN vào cách giải quyết của Việt Nam với tư cách là chủ tịch.
Tuy nhiên, thuận lợi khó khăn là hai mặt của vấn đề. Thách thức bao giờ cũng xuất hiện, trong đó thách thức lớn nhất là tình hình Biển Đông chưa có dấu hiệu cải thiện tốt, do tồn tại những vấn đề về tham vọng chủ quyền phi lý, những tuyên bố đơn phương và những hành vi nguy hiểm. Chẳng hạn, Trung Quốc vẫn tiếp tục theo đuổi đường lưỡi bò theo hình thức mới, đưa đường lưỡi bò vào các ngõ ngách rất tinh vi, từ quyển sách, hoạt động văn hoá hay các sản phẩm tiêu dùng, không chỉ ở Việt Nam mà còn thế giới. Tôi cho rằng đây là một sự đầu độc, một “tiểu xảo” mà chúng ta phải nêu cao cảnh giác, chủ động kịch bản để ngăn chặn những tình huống xấu. Mục đích là pháp luật quốc tế phải được tôn trọng.
Trên thực địa, tôi cho rằng tình hình cũng sẽ phức tạp, khi đó tiếng nói của ASEAN đến đâu cũng đang là một vấn đề. Khi tiếp quản ASEAN, Việt Nam cần thúc đẩy một Bộ Quy tắc ứng xử COC có tính ràng buộc pháp lý. COC phải phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). COC phải tiếp cận đa phương, đảm bảo quyền hợp pháp của các nước trong khu vực, nhưng cũng phải bảo đảm quyền của các nước khác theo luật pháp quốc tế, như bảo đảm quyền tự do hàng hải và hàng không. Nếu không, Biển Đông sẽ là “hòn đá tảng” ngăn cản giao lưu toàn cầu, chứ không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của các nước trong khu vực.
- Ở khu vực nói chung và Biển Đông nói riêng đang diễn ra sự cạnh tranh giữa các nước lớn. Theo ông, Việt Nam với tư cách là Chủ tịch ASEAN, cần ứng xử thế nào?
- Việt Nam phải thể hiện chính kiến chung của ASEAN đặc biệt về vấn đề Biển Đông. Việc tranh thủ đồng thuận, đoàn kết nội khối để có bản COC có hiệu lực, hiệu quả, có tính thực tiễn khả thi, được các bên cảm thấy đều có lợi là hết sức khó khăn, nhưng phải làm. Thông điệp vừa hợp tác vừa đấu tranh đã được Việt Nam thực hiện thành công trong thời gian qua, hợp tác để phát huy mặt tích cực, đấu tranh để hạn chế mặt tiêu cực. Thông điệp này nên được khéo léo đưa vào để thực hiện trong ASEAN vì ASEAN là cơ chế đa phương, nên việc hợp tác đa dạng hoá quan hệ quốc tế là nguyên tắc và nhu cầu.
Tranh thủ nhiệm kỳ nên đưa ra quy định chung về quan hệ của ASEAN với các đối tác, để ngăn ngừa những điều có thể dẫn đến chia rẽ ASEAN. Cuối cùng, phải rất chú ý đến sự đoàn kết trong ASEAN trong cuộc cạnh tranh nước lớn trước những sức ép quyền lực mềm như kinh tế, ngoại giao… Lợi ích cốt lõi của dân tộc và lợi ích chung của ASEAN phải hài hoà thì sẽ thành công.
- Trước những thách thức như vậy, ông kỳ vọng gì về thành công của Việt Nam trong năm Chủ tịch ASEAN?
- Uy tín quốc tế của Việt Nam đang gia tăng. Đến giờ, thực tế cho thấy Việt Nam có đầy đủ năng lực để tổ chức các sự kiện quốc tế lớn, nên tôi tin rằng trong năm Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ phát huy tốt hơn nữa khả năng này và sẽ thành công trong nhiệm kỳ.
- Xin cảm ơn ông!