Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh: Cụ thể, theo cách tính lương hưu tại khoản 2, Điều 56, Luật BHXH thì nhiều lao động nữ nghỉ hưu trong năm 2018 sẽ hưởng lương hưu thấp hơn hẳn so với người có cùng thời gian đóng BHXH nghỉ hưu năm 2017 (lên đến 10%).
Số liệu thống kê, tính đến ngày 1.1.2018, sẽ có khoảng 110.000 lao động nghỉ hưu, trong đó có khoảng 50.000 lao động nữ và 60.000 lao động nam. Theo cách tính của khoản 2, Điều 56 Luật BHXH thì nam thiệt ít hơn vì nam có lộ trình 5 năm, còn nữ thì tính ngay. Vì vậy trong 50.000 lao động nữ nghỉ hưu sẽ có khoảng 21.000 lao động nữ bị thiệt, trong số đó có khoảng 4.000 lao động nữ thiệt nhiều nhất khoảng từ 5-10% lương hưu.
Vậy để người lao động nữ không bị thiệt thòi, bộ đã có đề xuất như thế nào, thưa Bộ trưởng?
- Bộ LĐTBXH là đơn vị đề xuất Luật BHXH, vì vậy sẽ có trách nhiệm tham mưu cho Chính phủ tính toán các giải pháp về việc dừng thực hiện khoản 2, Điều 56, Luật BHXH. Trong đó các giải pháp phải đảm bảo các nguyên tắc: Không để lao động nữ thiệt thòi; thực hiện có lộ trình; đảm bảo có đóng (BHXH) có hưởng; tạo điều kiện cho quỹ BHXH ổn định và phát triển bền vững, không tạo ra những bức xúc trong xã hội”.
Chính tôi đã ký văn bản trình Chính phủ các phương án để xử lý vấn đề này. Trong các phương án trình Chính phủ có phương án tạm thời chưa thực hiện (khoản 2, Điều 56 Luật BHXH - PV) và sẽ kéo dài tới năm 2022 mới thực hiện. Vấn đề này Chính phủ phải thảo luận, Thủ tướng Chính phủ phải cho ý kiến sau đó mới trình Quốc hội, hoặc UBTVQH thông qua thì mới thực hiện.
Còn liên quan đến thông tin, có rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại các khu công nghiệp đang có xu hướng không sử dụng lao động nữ sau tuổi 35, Bộ trưởng đánh giá thông tin này như thế nào?
- Khu vực FDI không chỉ tạo ra tăng trưởng cho nền kinh tế mà còn tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho lao động nữ.
Theo thống kê, tại các khu công nghiệp đang tạo ra 3,9 triệu việc làm cho người lao động. Và theo nguyên tắc của thị trường, nơi nào có môi trường làm việc tốt (lương, phúc lợi, điều kiện an toàn vệ sinh lao động - PV) thì người lao động sẽ đến làm. Đấy là quyền lựa chọn của họ. Thứ hai, trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) thì việc ứng dụng công nghệ, máy móc tiên tiến vào sản xuất, dẫn đến một lượng lao động bị dôi dư là chuyện đương nhiên. Quốc gia nào cũng vậy.
Theo tôi được biết, có những doanh nghiệp trước đây sử dụng khoảng 60 lao động, nhưng khi nhập các thiết bị tự động hóa vào sản xuất thì chỉ cần 20 lao động. Thế nên, những lao động dôi dư có thể phải tự kiếm việc làm; ngoài ra với những lao động này, ngoài chủ sử dụng lao động hỗ trợ một phần kinh phí, hoặc trích một phần kinh phí từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp đào tạo lại nghề cho họ.
Trở lại thông tin, có một số chuyên gia nhận định sẽ có khoảng 80% số nữ công nhân đã và sẽ phải nghỉ việc trước tuổi 35 tại doanh nghiệp ở khu công nghiệp có nguy cơ mất việc. Từ thông tin này, chúng ta thử làm một phép tính giản đơn. Trong số 3,9 triệu lao động tại các KCN-CX thì lao động nữ chiếm 70%; thế mà có đến 80% trong số lao động nữ đó phải nghỉ việc trước tuổi 35 là một con số cực lớn, liệu có chính xác? Chắc chắn là không.
Tuy nhiên, không lơ là chủ quan, Bộ LĐTBXH vẫn chỉ đạo các cơ quan tiếp tục sâu sát để có những tổng kết, đánh giá trình Chính phủ có những giải pháp cụ thể. Mấu chốt đặt ra phải làm sao đảm bảo môi trường để các doanh nghiệp làm ăn phát triển; đồng thời đảm bảo quyền lợi cho lao động nữ một cách tốt nhất. Tôi nhắc lại, vấn đề này Chính phủ đặc biệt quan tâm và sẽ có những biện pháp giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên (chủ sử dụng lao động và người lao động), song trên cơ sở đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ.
- Xin cảm ơn Bộ trưởng!