PV: Xin chào ông. Chúng tôi rất ngạc nhiên và muốn biết tại sao cuộc gặp mặt của các đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ do Văn phòng Trung ương Đảng tổ chức lại xuất hiện một Chủ tịch Tập đoàn kinh tế tư nhân?
Mặc dù là Chủ tịch Tập đoàn GFS nhưng tôi được Ban tổ chức mời với tư cách là Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện Công nghệ GFS, một trong 12 đơn vị thành viên của Tập đoàn GFS và được quản lý chuyên môn bởi Liên Hiệp các Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam.
Có thể còn non trẻ nhưng chúng tôi đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước đó, vì vậy chúng tôi đã quy tụ được đội ngũ các chuyên gia đầu ngành công nghệ ứng dụng, các Giáo sư, Tiến sĩ trong và ngoài nước. Hiện chúng tôi đang triển khai hàng loạt các đề tài ứng dụng, chuyển giao công nghệ với các nước trên thế giới và không phải tự nhiên mà Viện công nghệ GFS được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tin tưởng giao thực hiện 2 đề tài cấp nhà nước: (1) sản xuất phân bón hữu cơ Nano Bioplant Flora, (2) sản xuất chế phẩm sinh học Lactor Power phục vụ trong chăn nuôi bò sữa.
PV: Được biết GFS là một doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đã có thương hiệu trên thị trường nhưng lại điều chỉnh chiến lược sang phát triển nông nghiệp hữu cơ công nghệ cao. Một sự điều chỉnh chiến lược khó có thể nghĩ tới?
Tôi đam mê nghiên cứu khoa học và tôi luôn có một suy nghĩ về bài toán kinh doanh đó là: mọi thứ đều hữu hạn, bất động sản, lợi thế địa tô, vốn, quan hệ rồi sẽ đến một lúc sẽ cạn kiệt và cường độ cạnh tranh là vô cùng khốc liệt, nhưng tri thức, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo thì là vô tận. Với suy nghĩ đó tôi đã định hình rõ chiến lược phát triển Tập đoàn GFS.
Tôi cho rằng, chỉ có khoa học mới có thể tạo nên sự đột phá và phát triển bền vững. Tôi đã xác định tầm nhìn chiến lược và bước đi lâu dài của Tập đoàn GFS là đầu tư cho khoa học công nghệ, đặc biệt, khoa học công nghệ được áp dụng trong nông nghiệp hữu cơ công nghệ cao. Trong 5 năm tới, 70% giá trị gia tăng của Tập đoàn sẽ do khoa học công nghệ mang lại. Trong hoạt động khoa học công nghệ, nông nghiệp là lĩnh vực ưu tiên, chiếm tỷ trọng lên đến 70%, 30% còn lại sẽ dành cho các sản phẩm khác.
Trong xu thế phát triển việc nghiên cứu và đưa vào sử dụng rộng rãi các sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, các sản phẩm không chỉ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí như: bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt, nhân đạo với động vật và công bằng xã hội, không sử dụng các hóa chất nông nghiệp tổng hợp và các chất sinh trưởng phi hữu cơ…mà còn mang nét đặc sắc riêng của Việt Nam, không lẫn với bất kì sản phẩm của các quốc gia khác.
PV: Như vậy chiến lược của GFS trọng tâm là nông nghiệp hữu cơ đặc sắc, tuy nhiên đây lại là nhóm sản phẩm rất kén khách hàng, ông đã có những tính toán gì cho đầu ra của các sản phẩm hữu cơ mà ông ấp ủ chưa?
Một câu hỏi rất hay. Tôi đã nghĩ đến điều này và quá trình xây dựng chuỗi phải tính đến. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng nói: “Nông nghiệp hữu cơ không chỉ dành cho người giàu”, đó là định hướng, là mong muốn trong dài hạn. Nhưng tôi nghĩ ở giai đoạn trước mắt khi mà mức độ kiểm soát chất lượng, tệ nạn hàng giả, hàng nhái tràn lan thì mục tiêu của tôi phải là thị trường xuất khẩu. Đối tượng khách hàng của tôi là Trung Quốc, một thị trường mà ngay cả người giàu sành ăn thôi đã quá rộng lớn rồi.
PV: Chúng tôi đã nghe ông nói về các mục tiêu trong chiến lược 5 năm mà ông theo đuổi. Xa hơn 5 năm ông có tham vọng gì nữa không khi mà chuỗi giá trị nông nghiệp hữu cơ của ông đã đi vào vận hành?
Chắc chắn tôi sẽ theo đuổi chiến lược mà tôi đã định hình cho GFS đó là nông nghiệp hữu cơ công nghệ cao. Nói là tham vọng thì hơi quá nhưng tôi có hai mục tiêu trong dài hạn gắn liền với nông nghiệp hữu cơ đó là: Thay đổi thói quen người Việt chúng ta luôn ngước mắt nhìn những sản phẩm tiêu chuẩn châu Âu hay châu Mỹ thì chính người châu Âu hay Mỹ phải ngước lên nhìn những sản phẩm hữu cơ chất lượng cao, đặc sắc của Việt Nam và cuối cùng tôi có một khao khát lớn là “Biến Việt Nam trở thành Vườn dược liệu của thế giới”.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi thú vị này.