Theo báo cáo của TKV, trong giai đoạn từ năm 2014-2018, sản lượng của các lò chợ áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến (CGH, giàn mềm, giá khung, giá xích) đang tăng dần qua các năm, thay thế cho các lò chợ áp dụng công nghệ cũ, kém hiệu quả, lạc hậu (giá TLDĐ, cột TLĐ, phân tầng, ngang nghiêng, buồng cột).
Hiện việc thông gió mỏ tại các mỏ hầm lò trong Tập đoàn đều được trang bị đủ trạm quạt gió chính có hệ thống đảo chiều; việc đảo chiều gió được thực hiện theo quy định 2 lần/năm. Các đơn vị đã kiểm tra, cải tạo nâng cấp và đầu tư mới quạt gió chính có lưu lượng, hạ áp đáp ứng yêu cầu tăng sản lượng, đảm bảo điều kiện vi khí hậu cho người lao động. Trong những năm qua, TKV đã chỉ đạo các đơn vị xây dựng 10 cửa gió tự động ở các đơn vị: Nam Mẫu, Khe Chàm, Thống Nhất, Dương Huy; đang triển khai tự động hóa trạm quạt gió chính ở Cty Than Mạo Khê. Các mỏ hầm lò đã đầu tư quạt cục bộ có cơ cấu giảm thanh, quạt đa cấp, ống gió có đường kính từ lớn (700 - 1.200mm) để thông gió cho các gương lò dài, gương lò cơ giới hóa. Tính đến hết 2018, các đơn vị trong Tập đoàn đang quản lý và sử dụng 455 quạt đa cấp các loại, 983 quạt đơn cấp; việc đầu tư các quạt đa cấp để hạn chế việc lắp nối tiếp nhiều quạt thông gió cho một gương lò dài.
Theo kế hoạch, mục tiêu điều hành kế hoạch của TKV giai đoạn 2019-2023 là duy trì sản xuất ổn định, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, mô hình quản trị phù hợp, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng đảm bảo phát triển bền vững, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc và phúc lợi cho người lao động, đặc biệt là thợ lò. Phấn đấu đến năm 2023 sản lượng than khai thác bằng CGH (CGH đồng bộ, CGH loại nhẹ và các loại hình CGH khác) đạt 20-25% tổng sản lượng than khai thác hầm lò. Phấn đấu đến năm 2023 tỉ lệ mét lò neo đạt 23-25% tổng mét lò đào mới. Đồng thời, không để xảy ra các vụ tai nạn, sự cố nghiêm trọng về khí, cháy mỏ, bục nước mỏ và ngập mỏ hầm lò, đáp ứng các yêu cầu ổn định sản xuất của mỏ.
Hội nghị đã thống nhất, trong giai đoạn 2019-2023, TKV tiếp tục rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy trình công nghệ, văn bản, tài liệu hướng dẫn cho phù hợp với thực tế sản xuất để áp dụng chung trong toàn Tập đoàn. Qua đó, các đơn vị sản xuất than hầm lò, xây lắp mỏ phải đổi mới tư duy, nhận thức và phải có trách nhiệm hơn nữa trong việc áp dụng CGH trong khai thác, đào lò vào sản xuất. Phải xác định trong điều kiện tuyển dụng lao động thợ lò khó khăn muốn nâng cao NSLĐ, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo hiệu quả SXKD không còn cách nào khác phải khẩn trương, tích cực áp dụng CGH vào khai thác, đào lò.
Trên cơ sở các báo cáo địa chất, kết quả thăm dò bổ sung mới nhất, các ban của TKV cùng với các đơn vị sản xuất than hầm lò và xây lắp mỏ chủ động (hoặc kết hợp với các đơn vị tư vấn, chuyên gia nước ngoài) nghiên cứu, đánh giá, lựa chọn công nghệ khai thác, đào lò tiên tiến, phù hợp để áp dụng tại đơn vị (CGH ĐB, CGH vỉa dốc, giàn mềm, máy đào lò…). Tiếp tục sử dụng có hiệu quả các máy Combai đào lò than hiện có; nghiên cứu đầu tư máy khoan + xúc đa năng kết hợp với khoan neo ở các đường lò có điều kiện địa chất, tiết diện phù hợp. Rà soát các đường lò than, lò đá có điều kiện áp dụng được máy đào lò để định hướng áp dụng máy đào lò tại các đơn vị...
Đối với công tác khoan phòng ngừa bục nước và thoát nước mỏ hầm lò, cần kiểm soát chặt chẽ công tác xây dựng kế hoạch và thực hiện khoan thăm dò phòng ngừa bục nước, công tác thoát nước mỏ. Tăng cường chỉ đạo công tác thực hiện khoan phòng ngừa bục nước mỏ hầm lò bằng lỗ khoan tầm dài, tầm trung. Nâng cao chất lượng việc lập các biện pháp kỹ thuật khoan phòng ngừa bục nước mỏ hầm lò để đảm bảo hiệu quả của các lỗ khoan...