Tương lai sáng lạn
- Thưa Đại sứ, Việt Nam có vị trí như thế nào trong chính sách hướng Đông của Israel?
- Chính sách hướng Đông của Israel những năm qua do Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu dẫn dắt, trong đó cho rằng, trọng tâm của quan hệ ngoại giao, kinh tế cho Israel trong tương lai gần nên đặt vào Châu Á. Chính sách này mang lại lợi ích trên thực tế cho cả nhà nước Israel cũng như cho cách tiếp cận thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau giữa Israel với các nước hàng đầu ở Đông Á.
Việt Nam rõ ràng là một trong những bên tham gia chính trong chính sách hướng Đông của Israel. Việt Nam là một trong những nước lớn nhất, đang phát triển kinh tế nhanh chóng. Đặc biệt, ngay trong năm nay, Việt Nam ứng phó với cuộc khủng hoảng COVID-19 theo cách ấn tượng.
Với những gì Việt Nam đã làm được, tôi cho là đã nêu bật được vai trò chắc chắn tăng của Việt Nam về chính trị, kinh tế, xã hội, không chỉ trong khu vực mà còn trên thế giới tới mức trở thành một nhân tố chính mà Israel hướng tới trong chính sách hướng Đông này.
Hợp tác kinh tế thương mại và đầu tư giữa Israel và Việt Nam trong năm qua có những nét nổi bật gì? Còn tiềm năng hợp tác nào ngoài kinh tế mà hai bên có thể thúc đẩy hơn nữa, thưa Đại sứ?
- Về kinh tế, có thể thấy rõ ràng rằng, hai nền kinh tế Israel và Việt Nam bổ sung cho nhau. Việt Nam, về cơ bản, là một trung tâm sản xuất về công nghiệp, nông nghiệp, lương thực, may mặc, thiết bị điện tử. Đó là những sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam sang Israel.
Trong khi đó, Israel chủ yếu là trung tâm của công nghệ. Chúng tôi có thể xuất khẩu công nghệ cao, phức tạp từ Israel sang Việt Nam, như công nghệ trong nông nghiệp, y tế, an ninh mạng, nhiều lĩnh vực khác.
Với công nghệ Israel, sản lượng của Việt Nam có thể tăng và có chất lượng tốt hơn. Điều này rõ ràng thúc đẩy có lợi cho tất cả các bên. Đây là thực tế của hiện tại và rất có ý nghĩa cho tương lai. Tôi không nhận thấy lý do nào để không phát triển hợp tác trong lĩnh vực này. Chúng tôi càng cung cấp nhiều công nghệ cho Việt Nam, Việt Nam càng có thể sản xuất tốt hơn. Tôi cảm nhận được tương lai sáng lạn cho quan hệ kinh tế của Israel và Việt Nam.
Tôi cho rằng, hai nước hoàn toàn có thể phối hợp trong rất nhiều ngành. Ngoài kinh tế, còn có các các ngành hỗ trợ khác như trao đổi công nghệ, kiến thức... Israel và Việt Nam đã hợp tác để xây dựng một hệ sinh thái cho các startup, trao đổi về quy chuẩn trong nhiều lĩnh vực.
FTA với Việt Nam là một bước ngoặt
Xin ông cho biết về diễn tiến đàm phán FTA giữa hai nước cũng như thông tin về tiến triển thúc đẩy đường bay thẳng giữa Israel và Việt Nam?
- Về thỏa thuận thương mại song phương, Israel và Việt Nam đã đàm phán gần 4 năm, có nghĩa là đang ở giai đoạn cuối của đàm phán. Nền kinh tế Israel và Việt Nam có tính chất bổ sung chứ không phải cạnh tranh với nhau, do đó quá trình đàm phán diễn ra khá suôn sẻ. Điểm vướng mắc cuối cùng trong đàm phán có liên quan tới bảo hộ nông nghiệp nhưng tôi tin rằng thỏa thuận sẽ sớm được hiện thực hóa, thậm chí trong những tháng tới.
Về đường bay thẳng Israel - Việt Nam cũng đang ở giai đoạn có nhiều tiến triển. Theo kế hoạch, việc thử nghiệm bay thẳng sẽ diễn ra trong năm 2020 nhưng do dịch COVID-19 nên hiện hai bên không có thảo luận sâu nào về vấn đề này. Chúng tôi sẽ chờ cho tới khi dịch bệnh qua đi và tiếp tục tiếp cận vấn đề này.
Tôi nghĩ sau đại dịch, số du khách Israel tới Việt Nam sẽ rất lớn. Sau khi có chuyến bay thẳng, nhiều du khách hai bên sẽ thăm quan lẫn nhau. Không dừng lại ở đó, hai bên còn tìm kiếm được các cơ hội kinh doanh thông qua đường bay này. Theo tôi, đây là một kênh quan trọng cần được chú trọng.
Đại sứ nhận định thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam, nhất là khi Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) vừa được ký kết cùng việc thực thi các hiệp định khác như Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)?
- Việt Nam có cách tiếp cận thương mại tự do rất rõ ràng. Có thể thấy rõ trong các hiệp định thương mại tự do kể trên, một số mang tính kinh tế hơn tính chính trị và ngược lại, nhưng đều nhằm giúp thị trường Việt Nam dễ tiếp cận hơn cho các thị trường khác và ngược lại.
Cách tiếp cận này cũng đúng với Israel, như đã được quan chức cấp cao Việt Nam đề cập về Thỏa thuận Thương mại Tự do (FTA) Israel-Việt Nam.
Tôi hy vọng Thỏa thuận Thương mại Tự do Israel - Việt Nam sẽ sớm được ký kết. Với Israel, thỏa thuận thương mại tự do với Việt Nam là một bước ngoặt. Chúng tôi cùng chung nhận định rằng, thỏa thuận thương mại với Israel là một trong những điều còn thiếu trong bản đồ FTA của Việt Nam.
Cá nhân tôi muốn nhấn mạnh rằng, Israel muốn là một phần trong thành công của Việt Nam và tôi nghĩ thỏa thuận thương mại song phương phục vụ lợi ích của cả hai bên.