Đề xuất cách thức khả thi giảm thiểu bức xạ trên sao Hỏa đã được nhà nghiên cứu Guo Jingnan, Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc (USTC) thuộc Học viện Khoa học Trung Quốc và các cộng tác viên quốc tế thực hiện.
Nghiên cứu công bố trên Geophysical Research Letters dùng dữ liệu từ Máy dò đánh giá bức xạ (RAD) trên tàu thám hiểm sao Hỏa Curiosity của NASA.
Tàu thám hiểm Curiosity được phóng vào tháng 11.2011 và hạ cánh xuống sao Hỏa tháng 8.2012. Tàu thăm dò của NASA được thiết kế để tìm kiếm các dấu hiệu của sự sống trên sao Hỏa.
Vào tháng 9.2016, Curiosity đậu gần một butte (đồi đứng đơn lẽ, với đỉnh khá phẳng) và nhận thấy lượng bức xạ giảm. Khi tàu của NASA rời khỏi butte, lượng bức xạ trở lại bình thường.
Các nhà nghiên cứu cho rằng sự thay đổi lượng bức xạ này có liên quan tới sự thay đổi của địa hình.
Các nhà khoa học đã vẽ bản đồ tầm nhìn toàn cảnh bầu trời của RAD để điều tra thêm. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra khoảng 20% bầu trời bị chặn khi tàu thám hiểm Curiosity ở gần butte. Lượng bức xạ chưa đến 10% trước khi tàu tiến gần butte. Những điều này cho thấy cấu trúc trên sao Hỏa này đã che chắn một phần bức xạ.
Thêm vào đó, các nhà nghiên cứu đã phát triển một mô hình và nhận thấy mức giảm bức xạ qua mô hình cao hơn đáng kể so với quan sát.
Các nhà nghiên cứu giải thích rằng, sự cản trở của butte có thể góp phần tạo ra suất phản xạ bổ sung và khi ẩn náu bên cạnh một butte cũng không hoàn toàn an toàn vì dù bức xạ từ trên cao giảm nhưng bức xạ thứ cấp do butte phản chiếu có thể tăng lên.
Cuối cùng, dựa trên quan sát RAD và một mô hình vận chuyển bức xạ, các nhà nghiên cứu đã tính toán suất phản xạ của địa hình bằng phẳng trên sao Hỏa chiếm khoảng 19% tổng bức xạ bề mặt.
Nghiên cứu này đã xác định ảnh hưởng của địa hình học lên liều lượng bức xạ trên sao Hỏa và tiết lộ ảnh hưởng của các butte lên suất phản xạ trên sao Hỏa, góp phần vào hiểu biết về môi trường bức xạ trên sao Hỏa và phát triển các chiến lược giảm thiểu khả thi có thể phục vụ cho việc sinh sống trên sao Hỏa trong tương lai.