Các nhà nghiên cứu viết trong một bài báo xuất bản ngày 18.6 trên tạp chí Antiquity: “Việc đào lại và nguỵ tạo các ngôi mộ ngay sau khi chôn cất, theo truyền thống được mô tả (và bị bác bỏ) là trộm mộ, được ghi nhận ở các nghĩa trang từ Transylvania đến miền Nam nước Anh".
Trong nghiên cứu của mình, các nhà khảo cổ đã phân tích sự việc các nghĩa trang được khai quật trước đây tại 5 khu vực của Châu Âu. Họ phát hiện ra rằng, từ khoảng thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên, mọi người thường xuyên mở các ngôi mộ và lấy đi các di vật vì những lý do dường như không liên quan đến việc trộm mộ.
"Họ lựa chọn cẩn thận những di vật để lấy đi, đặc biệt là trâm của phụ nữ và kiếm của nam giới, nhưng họ để lại rất nhiều đồ vật có giá trị, thậm chí cả đồ kim loại quý, bao gồm cả mặt dây chuyền bằng vàng hoặc bạc" - tác giả chính của nghiên cứu, Alison Klevnäs tại Đại học Stockholm, cho biết trong một tuyên bố.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng nhiều vật được lấy ra từ các ngôi mộ trong tình trạng tồi tàn, đặc biệt là những thanh kiếm và sẽ không có giá trị sử dụng thực tế cũng như kinh tế.
Nhóm nghiên cứu viết: “Các kết quả cho thấy những ngôi mộ thường bị đào lại trong khoảng một thế hệ, đôi khi ít hơn. Khung thời gian phổ biến nhất để đào mộ là sau khi mô mềm phân hủy, nhưng trước khi quan tài gỗ bị sụp đổ hoặc chứa đầy trầm tích".
Vẫn chưa rõ tại sao người ta lại lấy các di vật khỏi những ngôi mộ, nhưng các nhà khảo cổ học tin rằng động cơ có thể thay đổi tùy theo từng nơi, chẳng hạn như liên quan đến nghi lễ chôn cất.
Klevnäs nói với Live Science trong một email: "Kiếm và trâm cài là hai trong số những đồ vật mang tính biểu tượng nhất ở các ngôi mộ. Những thứ này được tặng làm quà và được lưu truyền như vật gia truyền, chúng là vật dùng để liên kết mọi người qua nhiều thế hệ. Chúng mang theo những câu chuyện và ký ức. Vì vậy, có khả năng chúng được lấy lại vì những lý do này".
Tục khai quật mồ mả không kéo dài. Đồng tác giả Astrid Noterman, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học Stockholm, cho biết: “Phong tục khai quật mồ mả lan rộng khắp Tây Âu từ cuối thế kỷ thứ 6 và đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ thứ 7, sau đó giảm dần vào cuối thế kỷ thứ 7".
Heinrich Härke, giáo sư khảo cổ học tại Đại học Eberhard Karls Tübingen ở Đức - người không tham gia nghiên cứu - nói rằng, điểm mới trong nghiên cứu này là nỗ lực chặt chẽ nhằm tập hợp các bằng chứng của phương Tây và Trung Âu về việc "khai quật mộ" lại với nhau, thể hiện nó như một hiện tượng trên toàn Châu Âu trong thế kỷ 6-7 sau Công nguyên, và đưa ra một số cách giải thích khả thi.
"Tôi nghĩ đây là những phát hiện thực sự thú vị" - Emma Brownlee, một nhà nghiên cứu tại Khoa Khảo cổ học của Đại học Cambridge, cho biết. "Một trong những điều khiến tôi chú ý là thực tế là việc khai quật mộ diễn ra theo một cùng một cách ở những nơi cách xa nhau như Kent (Anh) và Transylvania, cho thấy rằng có sự hiểu biết chung về cách tương tác với người chết, vượt qua những ranh giới văn hóa khác. Chúng tôi chỉ mới bắt đầu đánh giá mức độ kết nối của thế giới thời trung cổ sơ khai và nghiên cứu như thế này vô cùng hữu ích".