Khi ông Abe Shinzo trở lại nắm quyền lãnh đạo chính phủ Nhật Bản vào tháng 12.2012, những người hoài nghi đã lo ngại rằng ông sẽ nghiêng về chủ nghĩa dân tộc bảo thủ, sẽ làm xấu đi mối quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực, rằng ông sẽ thay đổi bản chất hòa bình của Hiến pháp.
Tuy nhiên, theo tờ Japan Times, nhìn nhận lại, nhiệm kỳ của ông Abe hoàn toàn khác so với những gì những người hoài nghi tưởng tượng. Cũng giống như tất cả những nhà lãnh đạo chính trị khác, nhiệm kỳ của ông Abe có những thành công, thất bại và những cơ hội bị bỏ lỡ.
Abenomics
Tiếp nối cải cách Duy Tân Minh Trị trong quá trình hiện đại hóa của Nhật Bản, ông Abe đã khởi xướng Abenomics - một chiến lược kinh tế dựa trên “ba mũi tên” là nới lỏng định lượng, kích thích tài khóa thông qua chi tiêu chính phủ và cải cách cơ cấu.
Các chính sách này đã tạo được động lực ngay từ đầu cho đến khi hai đợt tăng thuế tiêu dùng bị coi là không phù hợp được thông qua vào năm 2014 và 2019. Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác cũng cho rằng Abenomics đã mất đà vì không có đủ cam kết cải cách cơ cấu.
Sóng gió kinh tế càng bị bồi thêm bởi các chính sách bảo hộ của Tổng thống Donald Trump và cuộc chiến thương mại của Mỹ với Trung Quốc. Cả hai đều tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp Nhật Bản. Trận “sóng thần kinh tế” bắt nguồn từ đại dịch COVID-19 gây tổn hại thêm, khiến nền kinh tế Nhật Bản ngày nay hầu như không khá hơn so với khi ông Abe nắm quyền.
Womenomics
Womenomics cũng là một lĩnh vực mà ông Abe đã khởi xướng để biến “Nhật Bản thành nơi phụ nữ có thể tỏa sáng”.
Theo báo cáo năm 2019 của Goldman Sachs, “Nhật Bản hiện có tỷ lệ lao động nữ kỷ lục (71%), vượt qua Mỹ và Châu Âu, với phúc lợi nghỉ phép hào phóng dành cho các bậc phụ huynh, cải thiện tính minh bạch về giới và cải cách lao động”. Tuy nhiên, báo cáo tương tự cũng nhấn mạnh rằng, “tình trạng khan hiếm lãnh đạo nữ, chênh lệch lương theo giới, hợp đồng lao động không linh hoạt, ưu đãi thuế...” đã không được giải quyết đầy đủ trong các chính sách của ông Abe.
Với việc chỉ có một số thành viên Nội các do phụ nữ đại diện và chỉ 10% số ghế ở Hạ viện do các nhà lập pháp nữ chiếm giữ, Womenomics đã không tạo được động lực mong muốn để giải quyết cơ bản tình trạng bất bình đẳng giới ở Nhật Bản.
Phản ứng với đại dịch COVID-19Phản ứng của ông Abe đối với đại dịch COVID-19 cũng gây tranh luận trái chiều. Việc ông xử lý kiểm dịch du thuyền Diamond Princess vào đầu tháng 2 đã bị chỉ trích nặng nề mặc dù Mỹ, Australia và những nước khác đã xử lý việc kiểm dịch tàu du lịch của chính họ theo cách tương tự.
Việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp của ông Abe vào tháng 4 cũng bị nhiều người cho là hơi muộn mặc dù tuyên bố này dẫn đến giảm tạm thời số ca lây nhiễm. Nhật Bản cho đến nay đã có hơn 65.000 ca nhiễm COVID-19 và 1.200 ca tử vong, và số ca nhiễm mới hàng ngày đã giảm từ mức đỉnh ngày 3.8 là 1.998 xuống còn 701 vào ngày 26.8 (236 tại Tokyo). Đại dịch bùng phát như thế nào trong năm tới sẽ tác động tích cực hoặc tiêu cực đến di sản trong nước của ông Abe.
Chính sách đối ngoại
Khi nhậm chức vào cuối năm 2012, ông Abe kế thừa mối quan hệ Trung-Nhật bị tổn hại nghiêm trọng sau khi chính phủ của Đảng Dân chủ Nhật Bản lãnh đạo quốc hữu hóa quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư.
Đáng ngạc nhiên, ông Abe đã khôi phục mối quan hệ song phương này (mặc dù vẫn thường xuyên căng thẳng), mà đỉnh điểm là chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (dự kiến vào mùa xuân này nhưng đã bị hoãn lại).
Quan hệ với Hàn Quốc là một lĩnh vực khác mà lời hứa ban đầu đã nhường chỗ cho vòng xoáy tiêu cực trong quan hệ song phương. Vào tháng 12.2015, ông Abe đã đạt được một thỏa thuận với chính phủ Hàn Quốc về vấn đề “phụ nữ mua vui”, có khả năng đặt nền tảng cho quan hệ song phương đi theo một quỹ đạo khác.
Tuy nhiên, tiến bộ ban đầu trong quan hệ song phương đã dừng lại khi Tổng thống Moon Jae-in đắc cử vào năm 2017. Sau phán quyết của Tòa án tối cao Hàn Quốc ra lệnh cho các công ty Nhật Bản bồi thường cho lao động thời chiến của Hàn Quốc, quan hệ song phương đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi Tokyo và Seoul bình thường hóa quan hệ vào năm 1965.
Thách thức lớn nhất của ông Abe trong nhiệm kỳ của mình là xử lý mối quan hệ Nhật Bản-Mỹ kể từ khi Tổng thống Donald Trump đắc cử. Ông Donald Trump rút Mỹ khỏi Hiệp định TPP, áp thuế đối với thép và nhôm của Nhật Bản, yêu cầu Nhật Bản và các đối tác liên minh khác thay đổi đáng kể các thỏa thuận chia sẻ gánh nặng của họ với Mỹ.
Ông Abe đã khéo léo xử lý mối quan hệ này. Đầu tiên, ông tìm cách thúc đẩy mối quan hệ cá nhân với nhà lãnh đạo Mỹ, kiềm chế những bình luận chỉ trích ông Donald Trump hoặc chính quyền Mỹ.
Thứ hai, ông Abe tăng cường chất lượng và số lượng các chuyến thăm thường xuyên tới Mỹ của các sĩ quan Lực lượng Phòng vệ, chính trị gia, học giả, các nhà nghiên cứu xe tăng và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Nhật Bản.
Thứ ba, ông Abe đã đầu tư rất nhiều vào chủ nghĩa đa phương và thúc đẩy một trật tự dựa trên luật lệ. Sử dụng Tầm nhìn Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và cởi mở, Hiệp định CPTPP và Hiệp định đối tác kinh tế với Liên minh Châu Âu, Nhật Bản đã đưa nhiều bên liên quan hơn vào khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhằm đảm bảo thị trường thương mại rộng lớn dựa trên luật lệ.
Di sản của ông Abe là sự kết hợp giữa những thành tựu, thất bại và những cơ hội bị bỏ lỡ. Ở cấp độ trong nước, các sáng kiến cốt lõi của ông chưa đạt được kỳ vọng vì thiếu cải cách cơ cấu. Mặc dù vậy, những thành tựu phải kể đến là cải cách quản trị doanh nghiệp, tự do hóa trong các chương trình di cư và những thay đổi khác đối với nền kinh tế trong nước.
Ở cấp độ quốc tế, ông đã đàm phán một cách sắc sảo về các vấn đề địa chính trị ngày càng khắc nghiệt và nhận được nhiều lời khen ngợi. Chỉ số Quyền lực Châu Á của Viện Lowy coi Nhật Bản là “nhà lãnh đạo của trật tự tự do ở Châu Á”. Khảo sát của Viện ISEAS-Yusof Ishak năm 2020 cho thấy Nhật Bản là quốc gia đáng tin cậy nhất trong khu vực. Đây là kết quả trực tiếp từ sự lãnh đạo của ông Abe trong nhiệm kỳ thủ tướng.
Bất kỳ ai là nhà lãnh đạo tiếp theo của Nhật Bản sẽ có nhiều điều để học hỏi từ vai trò thủ tướng do đó của ông Abe.